17 tháng 6, 2008
TÁC ĐỘNG VỀ XÃ HỘI SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
TÁC ĐỘNG VỀ XÃ HỘI SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
I- NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI – NHÌN LẠI HƠN MỘT NĂM TỪ KHI VIỆT
NAM GIA NHẬP WTO
Năm 2007, nhờ quá trình đổi mới đã hơn 20 năm tạo thế và lực, trong đó có
phần đóng góp của năm đầu tiên gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kinh tế Việt Nam đạt được thành tựu trên nhiều lĩnh vực, tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt mức cao nhờ cải thiện trong chính sách đầu tư, môi trường kinh doanh, mở cửa thị trường theo cam kết WTO. Tính đến tháng 12/2007, vốn FDI đăng ký đạt 15 tỉ USD, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường xuất khẩu mở rộng với kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006 và vượt 3,1% so với kế hoạch. Dự trữ ngoại tệ được bổ sung thêm 9 tỷ USD. Hội nghị lần thứ 15 các nhà tài trợ tổ chức đầu tháng 12/2007 tại Hà Nội đã mang lại cho Việt Nam 5,426 tỷ USD ODA cam kết trong năm 2008, tăng 20% so với năm 2007.
Việc thực hiện các cam kết WTO khi Việt Nam gia nhập tổ chức kinh tế quốc tế lớn nhất hành tinh này đưa đến những thời cơ lớn và thách thức lớn đan xen vào nhau về kinh tế và xã hội. Vấn đề kinh tế nào cũng có chiều cạnh xã hội và tác động về mặt xã hội, đồng thời có những vấn đề trực tiếp có tính chất xã hội, tạo ra những hệ quả xã hội đặc trưng. Về kinh tế cũng như về xã hội, nếu biết vượt thách thức có hiệu quả thì thách thức sẽ biến thành thời cơ, còn nếu không biết tranh thủ thời cơ kịp thời thì thời cơ cũng có thể biến thành thách thức. Mặt khác, từ cuối năm 2007, do những vấn đề đã tích tụ trong nhiều năm trước, cộng với những diễn biến không thuận của kinh tế thế giới, đặc biệt là những khó khăn, thậm chí suy thoái của kinh tế Mỹ, lại thêm những hậu quả ngày càng rõ của sự biến đổi khí hậu toàn cầu, nên tình hình kinh tế vĩ mô của nước ta đã bộc lộ những nhân tố bất ổn, như hiệu quả thấp của đầu tư, nhập siêu tăng cao, thâm hụt ngân sách lớn, thị trường chứng khoán chao đảo, thị trường bất động sản hình thành bong bóng nguy hiểm, và nhất là lạm phát hai con số tác động xấu đến đời sống của nhân dân, nhất là những người nghèo.
Hơn một năm nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hội thảo, cả trong
nước và quốc tế, về tác động của việc gia nhập WTO đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Chuyên đề này tập trung vào những hệ quả trực tiếp có tính chất xã hội. Để có thể đưa ra những kết luận đủ độ tin cậy, cần phân tích, tính toán bằng các chỉ số định lượng và trên cơ sở một khoảng thời gian đủ dài, bao gồm tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nghèo đói, tuổi thọ, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, hệ số Gini (hay mức độ bất bình đẳng), tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ đi học, bình đẳng giới…đó là chưa kể sự phân tích rất cần thiết về lối sống, về văn hoá. Chuyên đề này không có điều kiện tiến hành những nghiên cứu định lượng đó, mà chỉ lựa chọn phân tích một số vấn đề xã hội khi Việt Nam gia nhập WTO, từ đó có một số nhận xét đánh giá làm cơ sở để đưa ra một số gợi ý chính sách.
1- Các quy tắc của WTO và cách thực hành trong WTO tác động về xã hội
WTO là tổ chức kinh tế thế giới thúc đẩy sự lưu chuyển trên quy mô toàn cầu của hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất như vốn, công nghệ, tri thức quản lý kinh doanh. Tham gia vào WTO là tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đã trở thành một xu thế tất yếu của thời đại, khi đó thị trường trong nước của mỗi quốc gia ngày càng liên kết sâu rộng với thị trường thế giới. Để thực hiện mục tiêu đó, WTO đề ra những nguyên tắc bắt buộc các thành viên tham gia phải thực hiện.
Các nguyên tắc cơ bản của WTO là:
(i) Không phân biệt đối xử, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Theo đó, thương mại quốc tế đối với hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa các nước thành viên. Nguyên tắc này nằm trong điều khoản “tối huệ quốc” (MFN) được nêu trong tất cả các Hiệp định WTO. Điều khoản MFN được bổ sung bằng điều khoản đãi ngộ quốc gia trong thương mại hàng hóa cũng như thương mại trong các lĩnh vực dịch vụ mà các thành viên cam kết. Điều khoản đãi ngộ quốc gia nghiêm cấm phân biệt đối xử giữa hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu với hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước.
(ii) (ii) Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia, cắt giảm các loại thuế hải quan. Những biện pháp phi thuế quan như hạn chế nhập khẩu hay hạn ngạch không được sử dụng. Những biện pháp thương mại không lành mạnh như trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá bị hạn chế tối đa.
(iii) Minh bạch hoá: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Việt nam là nước đang phát triển và đang chuyển đổi, nên qua đàm phán đã đạt được kết quả có thời hạn một số năm để chuẩn bị thực hiện cam kết về thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp nông nghiệp và phi nông nghiệp, quyền kinh doanh...
Dẫu sao, tham gia WTO có nghĩa là nền kinh tế chấp nhận một sự cạnh tranh quyết liệt hơn cả ở trong nước và trên thị trường thế giới.
Đương nhiên, Việt nam vẫn hoàn toàn có quyền lựa chọn nhà đầu tư này hay nhà đầu tư khác, thứ hàng hoá dịch vụ của nước này, hãng này hay nước khác, hãng khác, chứ không phải bất kỳ nhà đầu tư nào, hàng hoá nào, dịch vụ nào cũng có thể tự do vào nước ta. Do vậy, có chính sách và biện pháp đúng để tham gia WTO có hiệu quả, thì nguồn lực của nền kinh tế sẽ được phân bổ hiệu quả hơn trên cơ sở những lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và sự phân công lao động quốc tế. Kết cục là sức mạnh của quốc gia sẽ được tăng lên nhờ tham gia vào quá trình đó.
Một kết quả dễ thấy về mặt xã hội khi hội nhập kinh tế quốc tế là người dân được hưởng nhiều loại hàng hóa và dịch vụ với chủng loại đa dạng hơn, chất lượng cao hơn và giá cả thấp hơn so với trường hợp không hội nhập. Điều đó có nghĩa là phúc lợi của mỗi người được nâng lên.
Tuy nhiên, không nên chỉ nhìn vào lợi ích toàn cục đó mà bỏ qua những vấn đề xã hội. Lợi ích của sự phát triển không được phân chia đồng đều cho tất cả mọi người của mỗi quốc gia nhờ tham gia WTO. Việc làm có thể mất đi ở nhóm người này hay ở nhóm ngành, nghề nào đó do chuyển dịch cơ cấu hay thay đổi lợi thế so sánh. Bất bình đẳng có thể tăng lên do thu nhập sẽ tăng lên với tốc độ khác nhau giữa những nhóm người khác nhau, giữa các vùng miền có điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau. Và còn nhiều vấn đề khác nữa như môi trường, công bằng, đạo đức xã hội… Những vấn đề xã hội này nếu không được nhìn nhận, đánh giá đúng mức và có giải pháp phù hợp sẽ dẫn đến những hệ quả tiêu cực và thậm chí kìm hãm sự phát triển. Mỗi quốc gia đều phải giải quyết tốt những vấn đề đó, tận dụng thời cơ đồng thời hạn chế những thách thức của quá trình toàn cầu hóa để đảm bảo sự phát triển bền vững.
2-Thực tế diễn biến một số vấn đề xã hội sau khi Việt Nam gia nhập WTO
2.1. Việc làm và thu nhập
Thị trường lao động là một trong những kênh chính chịu tác động xã hội khi gia nhập WTO, bởi sự gia tăng nhập khẩu, xuất khẩu, cạnh tranh, áp dụng công nghệ mới, đầu tư trực tiếp nước ngoài... đều có thể tác động đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Gia nhập WTO giúp thay đổi các cách thức sản xuất sản phẩm xã hội, thay đổi các cách thức tổ chức các nhân tố sản xuất theo nguyên tắc hiệu quả. Gia nhập WTO cũng đồng nghĩa là các bước đi của cải cách thị trường sẽ nhanh hơn.
Một điều quan trọng nữa là với việc gia nhập WTO, những quy tắc được chấp nhận mang tính toàn cầu sẽ làm thay đổi một cách hiệu quả suy nghĩ, hành vi và thúc đẩy người lao động tăng khả năng của bản thân họ.
Tất cả những quá trình này dẫn đến nhiều điều chỉnh trong cơ cấu của cả 3 lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Điều này tạo ra cơ hội đáng kể để phát triển thị trường lao động.
Khu vực công nghiệp chứng kiến việc làm được tạo ra ở nhiều ngành nhưng đồng thời cũng có nhiều lĩnh vực bị mất đi việc làm. Trong trước mắt, rất nhiều việc làm mới được tạo ra ở những ngành sử dụng nhiều lao động và không đòi hỏi tay nghề cao mà những nước đang phát triển như Việt Nam có lợi thế do sự phân công lao động quốc tế. Đó là những ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giầy, chế biến thực phẩm, xây dựng, hoặc những ngành xuất khẩu nguyên liệu thô, khai khoáng... Nhưng đồng thời những ngành không còn nhận được trợ cấp của Chính phủ sau khi thực hiện cam kết WTO hay những doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá sẽ là những ngành bị mất nhiều việc làm. Nhưng nhìn chung, việc làm tổng cộng ở khu vực công nghiệp tăng lên.
Theo số liệu khảo sát mới đây của trang web việc làm lớn nhất Việt Nam là vietnamworks.com, chỉ số cầu nhân lực năm 2007 tăng 67% so với năm 2006, đặc biệt cao nhất là những ngành sản xuất, trong khi đó chỉ số cung nhân lực mới chỉ tăng 22%. Điều đó cho thấy rất nhiều việc làm mới đã được tạo ra trong năm qua nhưng nguồn nhân lực hiện tại không đáp ứng đủ và xu hướng này còn tiếp tục trong những năm tới. Báo cáo cũng chỉ ra rằng nhu cầu về lao động có tay nghề đang tăng rất mạnh và sẽ xảy ra thiếu hụt trầm trọng đối với nhóm lao động có tay nghề.
Khu vực nông nghiệp có khả năng mất nhiều việc làm nhất do cơ cấu ngành đang có chiều hướng thu hẹp lại, diện tích trồng trọt giảm đi để chuyển sang nhiều mục đích sử dụng khác, đồng thời năng suất nông nghiệp tăng lên nhờ áp dụng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến hơn. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng, mỗi năm cả nước có gần 200.000 ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng, tương ứng mỗi hộ gia đình nông thôn có khoảng 1,5 lao động bị mất việc làm. Với 54% lực lượng lao động hiện nay là lao động nông thôn, phần lớn trong số đó là chưa qua đào tạo, thì cơ hội tìm việc làm mới của họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, lực lượng lao động vẫn còn làm trong ngành nông nghiệp cần phải có kỹ năng làm việc cao hơn để có năng suất cao hơn. Điều này cho thấy vấn đề đào tạo và đào tạo nghề ở khu vực nông thôn có vị trí hết sức quan trọng.
Khu vực thứ ba - dịch vụ - là ngành có nhiều cơ hội tạo ra một số lượng lớn việc làm. Nói cụ thể hơn, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh kích thích sự luân chuyển của hàng hoá và đem lại sự đa dạng phong phú các loại sản phẩm thị trường, kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ cũng như nhu cầu việc làm ở khu vực này tăng lên. Đồng thời, những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ, đặc biệt là về bán lẻ và bán buôn tạo ra một số lượng lớn việc làm mới.
Nhiều lĩnh vực dịch vụ cao cấp được mở ra như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông cũng tạo ra nhiều việc làm mới. Cũng theo báo cáo của Vietnamworks, nhu cầu lao động ở những ngành dịch vụ như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm là cao nhất trong năm 2007.
Một điểm cần lưu ý là khi vào WTO, cạnh tranh thị trường mạnh hơn, tức là người tìm việc chứ không phải việc tìm người. Vì vậy cần nhận thức rõ địa vị chủ động của người lao động, họ không chỉ là người nhận việc. Điều này tất yếu dẫn đến sự di chuyển lao động tăng lên giữa thành thị và nông thôn, giữa các khu vực và giữa các doanh nghiệp. Do đó, những hạn chế mang tính hành chính ngăn cản di chuyển lao động cần được bãi bỏ. Và điều quan trọng nhất là ảnh hưởng chủ yếu của gia nhập WTO đến việc làm về dài hạn là chất lượng chứ không phải là số lượng, đòi hỏi có thêm nhiều lao động tay nghề cao.
Việc làm vừa được tạo ra vừa bị mất đi khi thị trường được tự do hoá và những lợi thế so sánh di chuyển giữa các ngành nghề để đáp lại những thay đổi của thị trường. Việc làm chuyển từ ngành này sang ngành khác. Thách thức cho các nhà hoạch định chính sách là làm thế nào để tối đa hoá lợi ích và giảm thiểu sự mất đi việc làm, đồng thời quản lý tốt nhất sự di chuyển của việc làm và người lao động giữa các khu vực.
Về thu nhập của người lao động, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong năm qua có một kết quả rõ ràng là làm tăng thu nhập thực tế của người dân. Theo số liệu mới đây của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, thu nhập trung bình của người lao động trong khu vực doanh nghiệp năm 2007 tăng lên 10% so với năm 2006. Năm 2007 cũng là năm sản lượng và giá của nhiều loại nông sản chủ yếu đều tăng như gạo, cá, tôm, cà phê, cao su, hạt tiêu v.v. giúp thu nhập của người nông dân được cải thiện một bước.
Tuy nhiên điểm cần lưu ý là trong bối cảnh cạnh tranh, tiền lương thực tế của những lao động có trình độ tăng cao hơn so với người lao động không có tay nghề. Như vậy, bất bình đẳng thu nhập gia tăng do có sự khác biệt về mức lương giữa nhóm lao động có kỹ năng và khả năng thích ứng cao so với các nhóm lao động khác.
Hội nhập kinh tế tạo ra những cơ hội khác nhau về thu nhập của người lao động. Chẳng hạn, lao động trong các ngành xuất khẩu, dịch vụ có mức tăng trưởng thu nhập cao hơn do được hưởng lợi nhiều nhất khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong khi đó, nông dân là những người chưa được hưởng lợi nhiều bởi họ không tham gia xuất khẩu trực tiếp hàng hóa, điều đó đồng nghĩa với việc họ chưa thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Những nghiên cứu về kinh nghiệm một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines là những nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trước Việt Nam cho thấy nước nào thị trường càng mở cửa hơn cho bên ngoài, thì tiền lương thực tế càng tăng cao.
2.2. Nông nghiệp và nông thôn
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, khu vực nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, là khu vực chịu nhiều tác động nhất khi gia nhập WTO. Người nông dân vốn đã không chuẩn bị cho mình đầy đủ kiến thức và điều kiện để thích ứng với một môi trường cạnh tranh khắc nghiệt khi mở cửa thị trường chắc chắn sẽ gặp phải nhiều khó khăn, nhất là khi không còn được nhà nước bảo trợ về giá nông sản nữa. Mặt khác, công nghệ mới thâm nhập vào nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp hướng theo quy mô lớn và thâm canh tăng năng suất. Điều này dẫn đến kết quả là thiếu việc làm cho nông dân và một phần trong số họ sẽ lâm vào tình trạng thất nghiệp hoặc phải đi tìm các việc làm thay thế khác. Trong khi đó, đa số người nghèo lại là nông dân nên khi chịu những tác động kinh tế lớn, khu vực này tiềm ẩn nhiều vấn đề xã hội.
Hiện nay dân số sống ở nông thôn vẫn chiếm tới hơn 70% dân số cả nước và thu nhập của họ chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa. 2/3 dân số Việt Nam ở nông thôn đang ở tình trạng kém phát triển với năng suất thấp so với 1/3 dân số thành thị. Những khó khăn hiện tại của người nông dân Việt Nam là rất rõ ràng khi họ phải chịu nhiều rủi ro của thiên tai cộng với chi phí sản xuất đầu vào lớn và phải trang trải nhiều chi phí đời sống khác như học hành, chữa bệnh... trong phạm vi thu nhập khiêm tốn hơn nhiều so với người dân ở đô thị. Nông nghiệp và đời sống của người nông dân Việt Nam được lo ngại hơn cả bởi những tác động khi gia nhập WTO.
Mặc dù vậy, thực tế trong năm qua chưa cho thấy có những tác động tiêu cực lên khu vực này như nhiều người đã dự đoán. Thay vào đó cơ hội cải thiện đời sống của người nông dân đã diễn ra nhờ cơ hội xuất khẩu nông sản nhiều hơn.Hầu hết hàng nông sản năm 2007 đều được giá nên giá trị xuất khẩu tăng mạnh.
Tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản đạt trên 10 tỷ USD. Nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD trở lên. Kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt khoảng 1,7 tỷ USD (năm 2006 xuất khẩu gần 1 tỷ USD); thuỷ sản đạt 3,6 - 3,7 tỷ USD (năm 2006 đạt hơn 3 tỷ USD). Mặt hàng gỗ chế biến dự kiến đạt khoảng 2,5 tỷ USD; cao su khoảng 1,4 tỷ USD; xuất khẩu gạo trên 4,53 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,4 tỷ USD... Nhiều hộ nông dân đã có thu nhập cao trong năm qua do được mùa và giá cao. Như vậy, có thể nói việc gia nhập WTO bước đầu đã đem lại những tác động tích cực cho người nông dân ở Việt Nam.
Theo những cam kết của Việt Nam khi vào WTO, các sản phẩm nông nghiệp dành cho tiêu dùng trong nước vẫn nhận được khoảng 10% trợ cấp của Nhà nước trên tổng mức tiêu dùng chung mặc dù trợ cấp dành cho nông sản xuất khẩu phải loại bỏ. Mức thuế quan trung bình đánh vào hàng nông sản giảm từ 23,5% xuống còn 20,9% vẫn là mức khá cao và mang tính bảo hộ cho nông nghiệp trong nước. Đồng thời, Việt Nam vẫn có thể duy trì một hệ thống hạn ngạch nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước cho nhiều loại nông sản như mía, trứng, thuốc lá và muối. Đây là những thuận lợi chúng ta cần tận dụng để bảo vệ nền nông nghiệp và hỗ trợ nông dân trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO.
Tác động tích cực nhất đối với nông nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO là mở ra những cơ hội để có thể hợp tác toàn diện trên lĩnh vực khoa học nông nghiệp với các nước phát triển, đẩy mạnh thu hút kỹ thuật nông nghiệp mới, nâng cao hàm lượng kỹ thuật của nông sản, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh... có lợi cho điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp và chuyển đổi sản phẩm của vùng nông thôn. Đồng thời, việc mở cửa thị trường bán lẻ sẽ kích thích lưu thông, phân phối và xuất khẩu nông sản.
Tuy nhiên, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam cũng đang đứng trước một thách thức lớn là tình trạng thiếu việc làm. Điều này là xu thế tất yếu trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tích cực với diện tích canh tác thu hẹp lại để chuyển mục đích sang công nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ sở. Việc áp dụng máy móc và khoa học kỹ thuật nông nghiệp làm cho năng suất tăng cao hơn nhưng cũng sử dụng ít lao động hơn. Lực lượng lao động nông nghiệp dư ra là nguồn cung ứng lao động cho những ngành khác.
Thực tế cho thấy luồng lao động di cư từ nông thôn ra thành thị đang ngày càng tăng lên. Gia nhập WTO cũng có nghĩa là nhiều cơ hội việc làm được mở ra ở những ngành khác, nhất là ở thành thị và các khu công nghiệp. Vấn đề đáng chú ý ở đây là lực lượng lao động di cư từ nông thôn ra thành thị hầu hết phải làm những công việc không đòi hỏi tay nghề cao và có mức thu nhập thấp. Hơn thế nữa, việc di cư từ nông thôn ra thành thị dẫn đến tình trạng quá tải về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cơ bản ở những đô thị lớn, đòi hỏi phải có những giải pháp toàn diện.
Kinh nghiệm Trung Quốc về nông nghiệp và nông thôn là rất đáng để nghiên cứu. Kể từ khi bắt đầu gia nhập WTO, Trung Quốc đã hết sức chú trọng đến vấn đề giải quyết việc làm cho lực lượng lao động nông thôn. Trung Quốc thực hiện khẩu hiệu “Ai ai cũng có kiến thức”. Người lao động chưa qua đào tạo và trình độ thấp thì được đào tạo thông qua “chương trình ánh sáng tham gia đào tạo và hướng nghiệp” cho người lao động nông thôn. Chính phủ Trung Quốc còn áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích tạo việc làm trong chiến dịch nông thôn mới, kể cả việc tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng cho nông thôn, xóa bỏ học phí cho vùng nông thôn. Ngoài Bộ Lao động và An sinh xã hội thì Bộ Dân chính cũng tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Bình quân hàng năm phải đào tạo khoảng 1 triệu người lao động cho vùng khó khăn. Với miền núi khó khăn, tập trung đào tạo nghề, đưa đến các khu vực phát triển để tìm việc làm, tạo ra nguồn thu nhập lớn cho vùng khó khăn.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã có các chính sách đẩy mạnh phát triển đô thị, tăng cơ hội việc làm và điều chỉnh cơ cấu sản phẩm của xí nghiệp hương trấn, đẩy mạnh mậu dịch gia công bên ngoài, đưa lao động đi xuất khẩu; tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng; phát triển nhiều ngành nghề mới và dịch vụ ở nông thôn...để tạo việc làm và tăng thu nhập giảm nghèo.
Trung Quốc có chính sách trợ giúp nông nghiệp, đó là điều chỉnh cơ cấu vùng miền. Vùng ven biển giảm diện tích trồng cây lương thực, phát triển nông nghiệp thu ngoại tệ, miền trung và miền tây phát triển nông nghiệp trồng trọt nhằm đảm bảo phát triển cân đối giữa các vùng miền, đặc biệt chú trọng đến vùng phía tây kém lợi thế so sánh. Trung Quốc thực hiện các cam kết WTO nhưng đồng thời hướng đến một nền nông nghiệp chất lượng cao thông qua việc hoàn thiện pháp luật về kiểm dịch động thực vật, hoàn thiện hệ thống tiêu
chuẩn chất lượng đối với sản phẩm trong nước. Người nông dân cũng được bảo vệ với nhiều biện pháp cụ thể như đẩy mạnh trợ giúp nông nghiệp, thực hiện chính sách 4 miễn đối với nông dân (miễn thuế nông nghiệp, thuế chăn nuôi, thuế đặc sản nông lâm, thuế giết mổ), giảm đóng góp cho nông dân; đẩy mạnh trợ giúp nông nghiệp, trợ cấp các hạng mục cho nông dân (giống, mua công cụ lớn, sản xuất nông nghiệp tổng hợp...); đẩy mạnh trợ giúp sản xuất nông nghiệp thông qua ứng dụng khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề cho nông dân, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới; thúc đẩy cải cách hệ thống lưu thông sản phẩm.
Bài học cho Việt Nam ở đây là cần tạo điều kiện để lao động nông thôn di chuyển sang khu vực phi nông nghiệp. Năng suất lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ cao hơn gấp 6 lần lao động ở nông nghiệp và như vậy mỗi lao động nông nghiệp được chuyển sang khu vực khác sẽ tạo động lực đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế đất nước.
Chiến lược công nghiệp hoá ưu tiên phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động song song với việc đẩy mạnh giáo dục cơ bản ở nông thôn là tiền đề để thực hiện sự phát triển trong công bằng. Đồng thời đầu tư vào kết cấu hạ tầng ở nông thôn tạo điều kiện cho nông dân đa dạng hoá nông phẩm và tiếp cận với thị trường, thực hiện được chính sách phát triển nhanh nhưng không mở rộng độ chênh lệch giàu nghèo trong quá trình phát triển.
2.3. Xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội
Thành tích xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã được thế giới đánh giá rất cao. 15 năm qua, Việt Nam là một trong những nước đạt được tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ nghèo đói - tính bằng số người sống dưới mức 1USD/ngày – đã giảm từ khoảng 58% năm 1993 xuống còn 16% năm 2006. Năm 2007, sau một năm gia nhập WTO tỷ lệ nghèo lại tiếp tục giảm 6,28% so với cuối năm 2006.
Tỷ lệ nghèo đói ngày càng giảm của Việt Nam là nhờ những chính sách đem lại tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục, với tốc độ 7- 8% năm trong hơn một thập kỷ qua. Thành tích đó còn do Việt Nam có chính sách hạn chế gia tăng bất bình đẳng. Hệ số Gini, một chỉ số về bất bình đẳng thu nhập, chỉ tăng từ 0,34 năm 1993 lên 0,36 năm 2006 - thấp hơn các nền kinh tế mới nổi khác. Tỷ lệ người gần ngưỡng nghèo đói cũng giảm xuống và nếu theo xu hướng này có thể hy vọng nhiều người nữa thoát đòi nghèo trong tương lai gần.
Trong bối cảnh Việt Nam chính thức gia nhập WTO, tăng trưởng và giảm
nghèo đã diễn ra đồng đều ở cả thành thị và nông thôn. Tỷ lệ nghèo chỉ khoảng 4% dân số đô thị năm 2006 là mức tương đối thấp so với nhiều nước khác trong khi đó tỷ lệ này ở nông thôn cũng đang giảm nhanh chóng. Năm 1993, khoảng 2/3 dân số nông thôn được coi là nghèo, nay con số này giảm xuống còn 1/5.
Xóa đói giảm nghèo được tiến hành khắp các vùng, miền của Việt Nam. Tỷ lệ nghèo ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên mặc dù còn cao hơn hẳn so với các vùng khác chẳng hạn như Đồng bằng sông Cửu Long và Sông Hồng, nhưng cũng giảm khá nhanh. Tỷ lệ nghèo của người thiểu số giảm xuống rõ rệt. Như vậy không có vùng nào ở Việt Nam bị bỏ rơi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhiều chuyên gia đã chỉ ra ba yếu tố dẫn đến tăng trưởng tương đối đồng đều cho mọi người ở Việt Nam, đó là giáo dục, thương mại và kết cấu hạ tầng.
Ngày nay Việt Nam đã có tỷ lệ người biết đọc biết viết lên đến 95%, cao hơn Trung Quốc và Ấn Độ, và đó là yếu tố quan trọng dẫn đến tăng trưởng cho mọi người.
Thành tích của Việt nam xuất khẩu nhiều loại sản phẩm và thu hút đầu tư nước ngoài nhờ những hiệp định thương mại song phương và với WTO đã làm tăng thu nhập cho nhiều người.
Kết cấu hạ tầng nông thôn, nhờ chương trình điện khí hoá và giao thông nông thôn giúp cho những khu vực xa xôi nhất của đất nước cũng không bị bỏ rơi. Ngày nay, khoảng 95% hộ gia đình có điện lưới, so với 50% đầu những năm 1990. Khoảng 90% dân số sống trong khoảng cách không quá 2 km tới đường có thể đi được trong mọi điều kiện thời tiết. Người dân nông thôn hiện nay đã có điều kiện tiếp cận dễ dàng với các phương tiện thông tin như radio và tivi, kể cả ở vùng sâu, vùng xa. Các phương tiện liên lạc như điện thoại hay internet ngày càng phổ biến ở nông thôn.
Mức độ giảm nghèo tiến bộ liên tục trong nhiều năm là nhờ Việt Nam đã có những bước đi đúng đắn và cụ thể, thể hiện rõ nhất trong việc thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo với nhiều chương trình quốc gia được sự hỗ trợ lớn của ngân sách và các nguồn viện trợ quốc tế.
Những chương trình quốc gia về các lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo hiểm, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội đã cải thiện nhiều chỉ tiêu phát triển con người của Việt Nam như tuổi thọ, sử dụng nước sạch, tiến bộ về giới...
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt nhưng lại đang có xu hướng gia tăng bất bình đẳng tuyệt đối. Theo số liệu thống kê, nhóm 20% người giàu nhất có mức chênh lệch về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ gấp 6 lần so với nhóm 20% nghèo nhất. Xu hướng phân hóa giàu nghèo đang tăng trong nội bộ khu vực nông thôn, và đặc biệt là giữa nông thôn với đô thị. Mặc dù sự gia tăng chênh lệch giữa các vùng và giữa các nhóm người là tất yếu do phát triển kinh tế và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nếu để chênh lệch quá mức dẫn tới bất ổn xã hội sẽ thật sự là vấn đề đáng lo ngại và điều này cần được hết sức lưu ý.
3-Đánh giá chung
Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đến nay mới được hơn một năm. Việc đánh giá tác động về mặt xã hội cần phải có nhiều thời gian hơn nữa và cần dựa trên những phân tích kỹ lưỡng hơn để đưa ra những kết luận rõ ràng. Tuy nhiên qua những diễn biến thực tế được phân tích ở trên, những ảnh hưởng về mặt xã hội khi Việt Nam gia nhập WTO có chiều hướng tích cực nhưng cũng có không ít vấn đề phải đối mặt. Có thể rút ra một số nhận xét sau đây.
Chỉ trong một thời gian ngắn trước khi vào WTO, đã có khoảng 30 bộ luật và pháp lệnh được sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc và qui định của WTO, điều đó chứng tỏ Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết WTO và sẵn sàng đón nhận những thời cơ mới mà WTO mang lại.
Bên cạnh những con số ấn tượng đạt được về mặt kinh tế trong năm 2007, những vấn đề xã hội cũng được cải thiện một bước.
Việc làm tăng lên nhiều qua các năm, đặc biệt là ở khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực dân doanh, chứng tỏ môi trường kinh doanh và đầu tư của Việt nam đã ngày càng được cải thiện, trong đó có phần nhờ thực hiện các cam kết WTO.
Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước được tiến hành trong những năm qua được dự kiến là làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, với sự chuẩn bị tốt, Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ kịp thời đối với số lao động dư ra, do đó hầu như không có tình trạng thất nghiệp. Đây là một kết quả đáng khích lệ và cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Năm 2007, kế hoạch được đề ra là cổ phần hóa 500 doanh nghiệp nhà nước nhưng đến hết năm mới chỉ cổ phần hóa 116 doanh nghiệp, đạt 21%, là con số quá thấp so với chỉ tiêu đề ra.
Một số việc làm dự kiến sẽ bị mất đi trong thời gian sắp tới, đặc biệt là ở khu vực các doanh nghiệp nhà nước sẽ cổ phần hóa, ở những doanh nghiệp không còn nhận được sự bảo hộ của nhà nước theo cam kết của WTO, hay thậm chí ở một số ngành sử dụng nhiều lao động hiện nay có thể mất đi lợi thế cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, dự kiến tác động này là có tính cục bộ, không quá lớn và chỉ mang tính ngắn hạn. Mặc dù vậy, cũng cần có những nghiên cứu đánh giá kỹ tác động tới việc làm theo từng ngành cụ thể để có những giải pháp kịp thời.
Về tổng thể, hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn, phần lớn người lao động sẽ có cơ hội làm việc tốt hơn, đặc biệt là người lao động có trình độ, có kỹ năng, nhưng cũng có một bộ phận bị mất việc làm, nhất là những người không có tay nghề.
Thu nhập của người lao động được tăng lên, đặc biệt là ở khu vực doanh nghiệp. Có thể nói điều đó có được là do trong môi trường cạnh tranh hơn, các doanh nghiệp đã có những biện pháp đổi mới kinh doanh theo hướng hiệu quả hơn, năng suất cao hơn và nhờ đó thu nhập của người lao động cũng tăng lên.
Tuy nhiên, thực tế lạm phát tăng nhanh trong năm qua cần có biện pháp xử lý hiệu quả. Lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ làm cho thu nhập thực tế của người dân giảm xuống. Theo một nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới, GDP đầu người tính theo sức mua tương đương (PPP) của Việt Nam giảm 30% năm 2007. Hơn nữa, lạm phát cao nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ kìm hãm tăng trưởng và thậm chí có thể dẫn đến những bất ổn xã hội.
Việc tiền lương tăng lên phản ánh một thực tế là nhu cầu về lao động tăng lên, đặc biệt là đối với lực lượng lao động có kỹ năng, cho thấy có khả năng thiếu hụt ở nhóm lao động này.
Vấn đề công bằng và bất bình đẳng của Việt Nam đã được giải quyết khá tốt và được thế giới đánh giá cao. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được tiến bộ lớn nhờ những chính sách phát triển lấy trọng tâm là con người và vì người nghèo của Việt Nam được thực hiện trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, cần quan tâm đến sự chênh lệch giàu nghèo đang có xu hướng nới rộng ra giữa người có tay nghề và người không có tay nghề, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền. Giải quyết tốt vấn đề chênh lệch giàu nghèo là tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền vững.
Vấn đề cần quan tâm nhất là việc làm cho người nông dân. Đây không phải hoàn toàn là vấn đề của riêng việc Việt Nam gia nhập WTO mà là vấn đề mang tính cơ bản, chiến lược và lâu dài. Tình trạng thiếu việc làm của người nông dân là kết quả tất yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam đã và đang có nhiều chính sách hỗ trợ khá hiệu quả cho quá trình này, đặc biệt là những chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình công nghiệp hóa hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Thực tế cho thấy đời sống của người nông dân nhìn chung đã được cải thiện. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cần được giải quyết, đó là việc di dân theo chiều hướng khó kiểm soát về thành thị, tình trạng tái nghèo, tình trạng bỏ học tăng lên ở lứa trẻ, đời sống khó khăn của người dân tộc thiểu số, vùng xa, vùng sâu.
Cuối cùng, để phát huy những thuận lợi về mặt kinh tế và xã hội do việc gia nhập WTO mang lại cho Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập sâu hơn và cạnh tranh được với các quốc gia khác, một điều không thể thiếu là xây dựng một mạng lưới an sinh xã hội, đảm bảo cho mọi người có một cuộc sống an toàn. Thực tế cho thấy hệ thống an sinh của Việt Nam hiện nay còn thiếu và yếu.
Chắc chắn, việc Việt Nam gia nhập WTO còn có những ảnh hưởng khác về mặt xã hội như môi trường, quan hệ xã hội và đạo đức xã hội rất cần được nghiên cứu đánh giá. Những vấn đề ấy nằm ngoài phạm vi đề cập của chuyên đề này.
II- TRANH THỦ PHÁT HUY THỜI CƠ VÀ THUẬN LỢI VỀ MẶT XÃ HỘI
KHI GIA NHẬP WTO – MỘT SỐ VIỆC CẦN LÀM
1- Thể chế và chỉ đạo, điều hành của Chính phủ
Muốn phát huy được những thời cơ và thuận lợi, hạn chế những khó khăn thách thức cả về mặt kinh tế lẫn xã hội khi chúng ta vào WTO, điều đầu tiên và quan trọng nhất là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phù hợp với những cam kết của WTO.
Vào WTO, chúng ta tham gia vào một “sân chơi” toàn cầu với sự cạnh tranh quyết liệt hơn nhưng cũng bình đẳng hơn. Thể chế Nhà nước đóng một vị trí rất quan trọng trong việc gia nhập sâu rộng vào sân chơi toàn cầu đó và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Xây dựng một khung khổ thể chế ở Việt Nam, tạo ra được một hành lang an toàn cho nền kinh tế, một trật tự ổn định cho cuộc sống của người dân, các lợi ích, quyền và nghĩa vụ của từng cá nhân, của các cộng đồng đều được điều chỉnh trong một môi trường đồng thuận hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc của WTO.
Thể chế thể hiện thành pháp luật cần phải có vị trí tối thượng và mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải công khai, dựa trên pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện nâng cao vai trò phản biện xã hội, giám sát xã hội của xã hội dân sự, tăng cường sự tham gia của cộng đồng để người dân chủ động bàn định các chính sách quốc gia và thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp.
Nhà nước cần tập trung nỗ lực hoàn thiện một môi trường pháp lý và chính sách thuận lợi để phát huy mọi nguồn lực của xã hội. Môi trường pháp lý đó phải lấy công khai, minh bạch làm nguyên tắc hàng đầu, lấy cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các chủ thể hoạt động kinh doanh làm cơ sở nền tảng, việc trao quyền cho người dân phải được lấy làm mục tiêu và người thực thi công vụ phải luôn ý thức được trách nhiệm giải trình trước dân. Nhà nước kiểm tra, giám sát để bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội.
Sự điều hành của Chính phủ chỉ tập trung làm tốt những gì thực sự cần thiết thuộc về chức năng của Nhà nước, trả lại cho xã hội những công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn.
Phương thức can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế phải thật sự chuyển từ những công cụ quản lý trực tiếp sang công cụ quản lý gián tiếp, dựa trên cơ sở vận dụng đúng đắn thế mạnh của cơ chế thị trường.
Chính phủ phải nâng cao chất lượng xây dựng và giám sát việc tuân thủ các qui tắc, chuẩn mực kinh tế - xã hội; trong đó có cơ sở pháp luật – thể chế đảm bảo các điều kiện cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của thị trường. Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ phát triển thông qua xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.
Kiêt quyết chống tham nhũng, đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng phụcmvụ thật tốt cho người dân và doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả các dự án đầu tư của nhà nước, từ nguồn vốn ODA, nhất là về phát triển kết cấu hạ tầng.
2- Xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Một xã hội công bằng là xã hội trong đó mọi người đều có cơ hội học tập và lao động, được hưởng đúng phần đáng được hưởng từ thành quả của mình, được tự do làm những gì mà luật pháp không cấm.
Nhưng công bằng không có nghĩa là cào bằng, bình quân chủ nghĩa, người làm nhiều lại được hưởng thụ và đánh giá như người làm ít. Công bằng trước hết là sự bình đẳng trong cơ hội, cơ hội học tập, cơ hội làm việc, cơ hội kinh doanh. Cùng với công bằng cơ hội là công bằng trong phân phối thu nhập (nhưng không phải đồng đều).
Công bằng, dân chủ là điều kiện để đảm bảo trình độ văn minh của xã hội, là yếu tố cần thiết để phát triển bền vững kinh tế quốc gia. Xã hội văn minh là xã hội trong đó mọi công dân ý thức được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình và tự giác thực hiện nghĩa vụ đó đối với xã hội. Xã hội văn minh là xã hội có kỷ cương, nề nếp, con người lao động có năng suất cao, có đời sống vật chất đầy đủ và đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, con người được tôn trọng, được tự do phát triển về tài năng và nhân cách.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để đảm bảo sự phát triển bền vững thì một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó cũng là mục tiêu của toàn Đảng, Nhà nước và toàn dân ta.
Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì chỉ có thể dựa trên cơ sở mọi thành viên trong xã hội sống và làm việc theo pháp luật, đề cao và tôn trọng pháp luật với tinh thần của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3- Phát triển thị trường lao động cạnh tranh và chất lượng cao
Điều quan trọng để Việt Nam hội nhập vững chắc vào thị trường thế giới là phải có được một đội ngũ lao động có chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao, có khă năng thích ứng với thị trường và khai thác những cơ hội tốt hơn đang rộng mở cho tất cả mọi người. Chất lượng lực lượng lao động thể hiện thứ nhất ở trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng hành nghề và tính linh hoạt nghề; thứ hai là tinh thần chấp hành kỷ luật, hiểu biết pháp luật và ý thức hành động theo luật pháp; và thứ ba là văn hoá ứng xử trong công việc mang tính chuyên nghiệp.
Bởi vậy, các chính sách về thị trường lao động phải được điều chỉnh để tạo điều kiện cho sự dịch chuyển lao động phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Trước hết, phải hoàn thiện khung pháp lý, thể chế, chính sách và sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của thị trường lao động, thiết thực hỗ trợ sự phát triển thị trường lao động phù hợp với các thông lệ quốc tế và cam kết quốc tế của Việt Nam.
Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường lao động cần chú ý đến việc bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và cư trú của người lao động. Chế độ hợp đồng lao động cần được thực hiện rộng rãi để bảo đảm quyền lợi của cả người lao động và người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao động giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, vai trò của công đoàn có ý nghĩa quan trọng.
Nếu yêu cầu việc làm cũng như những đòi hỏi chính đáng khác của người lao động không được giải quyết, cả hiện tại và tương lai, thì nhiều hậu quả xã hội như bất bình đẳng xã hội, xung đột xã hội, tội phạm và tệ nạn xã hội có thể gia tăng mà tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đến đâu cũng không thể bù đắp nổi những tổn thất và hệ lụy xã hội
Chính sách tiền lương phải được thực hiện theo hướng thị trường hóa việc trả công cho người lao động, bảo đảm cho tiền lương trở thành động lực thực sự kích thích người lao động nâng cao năng suất, và ngược lại, chính hiệu quả và năng suất lao động quyết định tiền lương. Nhà nước điều tiết thị trường lao động thông qua áp dụng qui định mức lương tối thiểu chung. Mức lương tối thiểu này cần được nghiên cứu tính toán khoa học, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế và được điều chỉnh tăng dần.
Các chính sách hỗ trợ khác bao gồm các chính sách đồng bộ về thông tin thị trường lao động, tuyển dụng, hợp đồng lao động, dịch vụ việc làm, hỗ trợ chuyển đổi công việc. Những biện pháp hỗ trợ này cần được thông tin nhanh nhất và ít chi phí tìm kiếm nhất cho cả người lao động và người sử dụng lao động.
Điểm quan trọng là chính sách đào tạo và dạy nghề cần được đổi mới dựa trên những đòi hỏi của thị trường. Nhà nước có chính sách hỗ trợ người lao động đi học nghề và tìm việc. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu vực nông thôn.
Với thực trạng lực lượng lao động dồi dào và trẻ của Việt Nam, nhất là lao động ở nông thôn, một biện pháp hữu hiệu là đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là lao động đã qua đào tạo nghề, lao động nông nghiệp.
Chính phủ cần nghiên cứu, đánh giá tác động của việc mở cửa, gia nhập WTO
đối với việc làm trong giai đoạn hiện nay để có chiến lược phát triển thị trường lao động một cách phù hợp. Việc nghiên cứu tác động của việc gia nhập WTO phải sát thực tế, dự đoán được sự vận động của vấn đề, và đặc biệt cần có sự phối hợp và lồng ghép giữa hành động của ngành và của lĩnh vực.
Cuối cùng, một điểm cần hết sức lưu ý là, một lực lượng lao động rẻ, và trình độ tay nghề không cao có thể là lợi thế hiện tại nhưng sẽ kém khả năng cạnh tranh khi kinh tế phát triển hơn nữa. Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài dựa vào lợi thế nhân công rẻ có thể giúp giải quyết vấn đề việc làm trước mắt nhưng không phát huy được vai trò trong trung hạn và dài hạn, thậm chí có thể tạo ra trở lực cho phát triển. Trong bối cảnh thị trường thế giới có giá cả bị áp đặt, thành công trong cạnh tranh của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào khả năng duy trì sức cạnh tranh tại khu vực. Sức cạnh tranh này phụ thuộc vào hai yếu tố chính: mức chi phí nhân công và năng suất. Chi phí nhân công thấp là đặc điểm chung của cả khu vực mà Việt Nam nằm trong đó, do vậy, chỉ có chất lượng lao động mới có thể tạo ra sự khác biệt của Việt Nam trong cạnh tranh. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam cần phải hướng vào chất lượng cao.
4. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn
Chính phủ cần tiến tới một phương án mang tính cơ bản, lâu dài với một chiến lược hoàn chỉnh đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân (tam nông). Chính sách đó cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã được đề ra nhưng được đặt trong điều kiện thực tiễn mới - các nội dung đã cam kết khi gia nhập WTO. Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải hướng tới bốn lĩnh vực chủ yếu: tập trung xây dựng hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn; tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho kinh tế nông thôn; chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ; và tạo sự liên kết chặt chẽ nông thôn - thành thị. Về vấn đề này, kinh nghiệm của Trung Quốc như đã trình bày ở phần trên sẽ là những bài học hữu ích cho Việt Nam.
Đã có nhiều chương trình hỗ trợ cho khu vực nông nghiệp, nông thôn được xây dựng, vấn đề là nhanh chóng hiện thực hóa các chính sách, các biện pháp trợ giúp cho người dân, doanh nghiệp để tăng năng lực sản xuất, cạnh tranh với sản phẩm nông nghiệp của các nền kinh tế khác.
Đối với nguời nông dân, đất canh tác là tư liệu quan trọng nhất, do đó việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển đô thị, KCN, giao thông... đồng nghĩa với việc nguời nông dân bị mất việc làm và hậu quả xã hội là nạn thất nghiệp gia tăng, tệ nạn xã hội phát triển, đặc biệt bức xúc ở khu vực ven đô các thành phố lớn, gây ra những bất ổn tiềm tàng nếu không có giải pháp kịp thời có thể gây ra những hậu quả khôn lường về an ninh và trật tự xã hội.
Vì vậy, vấn đề cốt lõi là làm sao khi gia nhập WTO, phải giúp cho bằng được 70% nông dân Việt Nam khá lên.
Giải pháp trước hết là hỗ trợ sự dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. Sự dịch chuyển này có thể diễn ra bằng hai cách. Một là thu hút lao động ra khỏi khu vực nông thôn về các khu công nghiệp, thường tập trung ở vùng đô thị. Hai là đưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn, phát triển làng nghề. Cả hai cách đó cần được thực hiện đồng thời. Nhà nước cần đầu tư đào tạo nghề cho nông dân để đối phó với sự dịch chuyển trong nông nghiệp, tập trung đào tạo nghề cho lực lượng trẻ, lao động nữ, hỗ trợ học phí cho người học nghề.
Thứ hai là hỗ trợ nông dân những gì WTO không cấm, qua đó tận dụng một cách hiệu quả những ưu đãi cho nông nghiệp. Khi gia nhập WTO, phải xóa bỏ chính sách trợ giá, nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà WTO cho phép (còn được gọi là Hộp xanh) như thủy lợi, hệ thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, khuyến nông, nghiên cứu áp dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp. Ở khía cạnh này, Nhà nước và các tổ chức phi Chính phủ đóng vai trò quan trọng và cùng nhau chia sẻ gánh nặng tài chính.
Thứ ba, Nhà nước cần tăng đầu tư về nông thôn, tập trung đầu tư cho khoa học công nghệ và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Thứ tư, tập trung vào xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin tới nông dân. Bên cạnh những thông tin thị trường và khoa học kỹ thuật, cần xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết về lao động và tổ chức các dịch vụ giới thiệu việc làm ở khắp các vùng nông thôn, nơi có nhiều thanh niên đang thiếu việc làm và sẵn sàng di cư để tìm kiếm việc làm.
Thứ năm, có chính sách hỗ trợ để nâng cao tiêu chuẩn và chất lượng của sản phẩm nông nghiệp, đảm bảo sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Khi đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp tiếp tục trở thành động lực rất quan trọng thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
5. Hệ thống an sinh xã hội
Mục tiêu của hệ thống an sinh xã hội là đảm bảo cho mọi công dân, không loại trừ một ai, được yên tâm trước mọi rủi ro có thể xảy ra đối với đời sống của họ.
Hệ thống an sinh xã hội hiện nay ở Việt Nam bao gồm các chương trình dành cho người lao động ở khu vực chính quy cộng với trợ giúp xã hội thông qua các chương trình mục tiêu và các hình thức hỗ trợ khác dành cho những người thiệt thòi. Tuy nhiên, hệ thống an sinh hiện nay theo nhiều đánh giá còn thiếu và yếu. Mức hưởng an sinh xã hội của nhóm người có thu nhập cao rất lớn trong khi người có thu nhập thấp, ở nông thôn, miền núi chiếm tỷ lệ rất hạn chế. Theo tài liệu công bố của chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), những gia đình được hưởng nhiều an sinh xã hội nhất (40%) lại thuộc vào nhóm thu nhậpcao nhất Việt Nam, trong khi nhóm nghèo nhất chỉ nhận được chưa đến 7%.
Cũng theo nghiên cứu này, xét về tỷ lệ được hưởng an sinh xã hội, nhóm 20% dân số giàu nhất trong xã hội Việt Nam hưởng cao gấp 6 lần nhóm người nghèo. Nhóm liền kề nhóm giàu hưởng cao gấp 4 lần nhóm người nghèo.
Mục tiêu phát triển của Việt Nam là nâng tỷ lệ giảm nghèo hàng năm từ 2% hiện nay lên 3%. Trong khi đó, theo một nghiên cứu mới đây của nhóm các nhà khoa học thuộc Trung tâm Phân tích chính sách xã hội, thuốc ĐHTH Bath (Anh), về chính sách an sinh xã hội của Việt Nam, tỷ lệ nghèo có thể tăng 4,6% nếu không có khoản trợ cấp an sinh xã hội. Những vấn đề hiện nay của hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam nếu không được giải quyết tốt sẽ dẫn đến hệ quả làm thui chột những thành quả tăng trưởng kinh tế, làm trầm trọng thêm những vấn đề xã hội và cuối cùng là ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của lực lượng lao động. Do đó, cần một phương pháp tiếp cận hiện đại và thích hợp để giúp người dân đối phó với những rủi ro có thể xảy ra với sinh kế và sức khỏe của mình, đồng thời tránh bị tái nghèo chỉ vì những bất an trong cuộc sống như ốm đau, khuyết tật, mất việc làm, nuôi con và tuổi cao.
Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam cần được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: Một là, phải giải quyết được những vấn đề trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam, mang tính kế thừa và phát triển. Hai là, phải mang tính xã hội. Ba là, phải đảm bảo độ an toàn và có yếu tố bền vững. Hệ thống phải thúc đẩy có hiệu quả nền kinh tế thị trường, giảm tối đa rủi ro trong quá trình phát triển, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với xoá đói giảm nghèo trong từng bước phát triển của Việt Nam
Trước hết cần tạo khung pháp lý hoàn chỉnh về an sinh xã hội. Quốc hội chuẩn bị thông qua Luật Bảo hiểm xã hội mới quy định ba hình thức bảo hiểm là bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Điểm quan trọng là cần đổi mới chính sách bảo hiểm sao cho tách bạch rõ chức năng bảo hiểm và chức năng phân phối lại mà hiện nay hệ thống bảo hiểm xã hội vẫn đang đảm nhận. Đặc biệt cần cải tiến chế độ thu và chi bảo hiểm nhằm tạo điều kiện cho người lao động không bị ràng buộc bởi một đơn vị hay thành phần kinh tế nào, cho dù người đó là lao động tự do, miễn là họ tham gia đóng bảo hiểm đầy đủ theo nghĩa vụ, đúng pháp luật. Điều này giúp cho thị trường lao động trở nên linh hoạt hơn, và người lao động được tự chủ trong tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Trong tương lai gần, cần hướng tới xây dựng chế độ bảo hiểm xã hội toàn dân và mang tính bắt buộc.
Cơ hội tất nhiên lớn với người lao động khi Việt Nam hội nhập nhưng để giảm tối đa những thách thức, bảo vệ quyền lợi người lao động thì cần đẩy mạnh thực thi các chính sách tạo việc làm thông qua khuyến khích doanh nghiệp phát triển, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, sự tham gia của xã hội dân sự đối với chăm sóc sức khỏe, y tế và giáo dục cần được hết sức khuyến khích để bổ sung cho hệ thống an sinh xã hội cũng như để san sẻ gánh nặng tài chính của Nhà nước. Một ví dụ của các nước phát triển là gắn trách nhiệm xã hội với doanh nghiệp như chia sẻ gánh nặng bảo hiểm, có chính sách khuyến khích (giảm thuế) đối với những doanh nghiệp tuyển dụng nhiều lao động nữ, hay sử dụng người tàn tật, người dân tộc thiểu số.
Cần hết sức chú ý đến những nhóm người dễ bị tổn thương. Nhóm người dễ bị tổn thương là: nông dân bị mất đất canh tác, bị thiên tai dịch bệnh, những người bị rủi ro cá nhân, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, người di cư tự do vào các đô thị, người nghèo và cận nghèo. Chính sách xã hội phải hướng tới nhóm người này, trong đó người nghèo, trẻ em, phụ nữ, người già, người tàn tật là những người cần được quan tâm nhiều nhất và chắc chắn rằng họ phải được hưởng chế độ an sinh xã hội đầy đủ.
Cần đổi mới chính sách giáo dục và y tế sao cho mọi người dân đều có cơ hội
công bằng để tiếp cận với những dịch vụ quan trọng cơ bản này. Xã hội hóa các dịch vụ xã hội là quan trọng, nhưng phải đảm bảo việc tiếp cận dễ dàng đối với các nhóm xã hội yếu thế. Điều này có ý nghĩa an sinh xã hội rất lớn, có thể góp phần quan trọng vào việc cải thiện kỹ năng và sức khỏe cho lực lượng lao động quốc gia, đảm bảo chất lượng cho lực lượng lao động. Những chính sách hỗ trợ hiện nay như cho học sinh nghèo vay tiền đi học cũng như khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em và người nghèo chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả xã hội tích cực.
III- THAY LỜI KẾT
Gia nhập WTO mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam cả về kinh tế lẫn xã hội. Việc tham gia vào sân chơi kinh tế toàn cầu này giúp Việt Nam thúc đẩy nhanh hơn nữa những cải cách mà chúng ta theo đuổi, góp phần thực hiện nhanh hơn những mục tiêu kinh tế và xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Khi các tiêu chí tự do hoá thị trường được cam kết và thực thi, các chính sách xã hội liên quan đến thất nghiệp, mạng lưới an sinh xã hội, đào tạo và đào tạo lại cần được đánh giá, xem xét lại kỹ lưỡng để có sự điều chỉnh phù hợp. Việc đưa những chính sách đó vào thực tiễn không chỉ là vai trò của riêng Nhà nước mà cần sự đóng góp của tất cả mọi người, của cả người lao động và người sử dụng lao động, của cả người già và người trẻ, của cả công nhân, nông dân, trí thức và của mọi tổ chức xã hội dân sự. Điều quan trọng nhất là phải thực hiện nhất quán mục tiêu tối đa hoá lợi ích tổng thể của hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc chấp nhận một số tốn phí của sự điều chỉnh trong ngắn hạn để đổi lấy những lợi ích dài hạn. Tận dụng được thật nhiều cơ hội cũng có nghĩa là hạn chế được thách thức nảy sinh trong quá trình toàn cầu hoá.
Gia nhập WTO cho phép Việt Nam bước hẳn vào nền kinh tế thế giới. Để tiến lên một cách bền vững, các chính sách của nhà nước về xã hội đóng vai trò cốt yếu.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét