14 tháng 5, 2008

VN có quy trình làm chính sách có một không hai


"VN có quy trình làm chính sách có một không hai"
Nhiều vấn đề chính sách hiện đang được các ĐBQH mổ xẻ. Trong diễn đàn QH, đã có những ý kiến bàn về vai trò của các nhóm tư vấn, nghiên cứu độc lập, có đề xuất về việc các ĐBQH nên được trao quyền trình các dự án luật... Tuy nhiên, thực tế hiện nay, theo GS. Kenichi Ohno, VN đang có một quy trình hoạch định chính sách có một không hai.

Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản, Diễn đàn phát triển Việt Nam chia sẻ góc nhìn về quy trình xây dựng chính sách, chiến lược ngành của Việt Nam.

VN phát triển không nhờ chính sách tốt

- Giáo sư nhìn nhận như thế nào về mối liên hệ của sự phát triển của VN hiện nay với chính sách Chính phủ đưa ra?

VN đã có tốc độ phát triển nhanh. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này không dựa trên nền tảng của hệ thống chính sách tốt mà nhờ vào việc trước đây, nền kinh tế này hoàn toàn đóng, không giao thiệp với thế giới. Khi tự do hóa, mở cửa, VN cùng với Trung Quốc trở thành "mặt trận kinh tế mới" ở châu Á, nơi mọi người đều muốn vào đầu tư.

VN lại có lực lượng lao động tương đối tốt. Nguồn nhân lực là nhân tố thu hút các nhà đầu tư đến, khiến nguồn FDI tăng nhanh. Hai điểm này định vị VN ở vị trí giữa tại châu Á.

"Chính phủ VN hiện làm quá nhiều. Cán bộ nhà nước phải xây dựng quá nhiều kế hoạch, chiến lược với nguồn lực hạn chế cả về tài chính và nhân lực".

Tuy nhiên, FDI vào VN không phải vì chính sách tốt, ngược lại, chính sách của VN vẫn rất tệ so với khu vực.
Qua khảo sát của VDF với các nhà đầu tư tại Nhật Bản, Malaysia và Thái Lan về quy trình xây dựng chính sách công nghiệp cho thấy, các nước này không hề có vấn đề gì trong chất lượng chính sách. Giữa khu vực DN và Chính phủ có sự tin cậy lẫn nhau, cùng thảo luận.

Trong khi đó, VN tồn tại nhiều vấn đề về chính sách, dù đã có bước tiến dài trong cải thiện môi trường đầu tư từ một xuất phát điểm thấp.

Quy trình hoạch định chính sách, VN có một không hai

- Cụ thể những hạn chế chính sách đó là gì, thưa ông?

Hầu hết chính sách được xây dựng với sự can dự hạn chế của DN. DN chỉ được phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Chính sách được xây dựng trên cơ sở các phân tích và mục tiêu không thực tế, không được giới DN ủng hộ.

Hơn nữa, các chính sách không có sự phối hợp giữa các Bộ, chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành động cụ thể. Mỗi Bộ ngành có nhiều kế hoạch nhưng lại không xác định được lĩnh vực ưu tiên.

VN có quá nhiều chiến lược ngành. Mỗi chiến lược chỉ do vài người làm, trong thời gian ngắn, với chất lượng không cao. Chính phủ lựa chọn ưu tiên và quyết định kế hoạch.

Ở bất kì chính sách nào, việc xây dựng đều quá phân tán, và có quá nhiều sự chồng lấn. Ví dụ, nếu muốn xử lý vấn đề môi trường liên quan đến ôtô, bạn cần gặp đại diện Bộ Công thương, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên môi trường và biển, Bộ Khoa học - Công nghệ, lực lượng cảnh sát giao thông... và không một cơ quan nào chịu trách nhiệm chủ đạo trong việc này. Các chính sách khác cũng tương tự.

Có quá nhiều trách nhiệm cấp bộ chồng lấn lên nhau. Trong đó, định hướng lớn, không cơ quan nào ra quyết định.

Chính phủ VN hiện làm quá nhiều. Cán bộ nhà nước phải xây dựng quá nhiều kế hoạch, chiến lược với nguồn lực hạn chế cả về tài chính và nhân lực.

Chỉ có VN áp dụng một quy trình lập chính sách kì lạ, có một không hai như vậy.

Ở Thái Lan, Chính phủ không đưa ra chiến lược ngành. Đại diện DN đưa ra là người đưa ra chiến lược, và Chính phủ chỉ có nhiệm vụ nhận và chấp thuận những kiến nghị đó. Đây là cách làm tích cực, thúc đẩy khu vực tư nhận tự xác định mục tiêu và kế hoạch hành động. Ở khía cạnh đó, VN còn phải đi một chặng đường dài để học tập.

- Phải chăng cộng đồng DN cũng chưa thực sự chủ động tham gia vào quy trình hoạch định chính sách?

Đúng vậy, bởi vì họ không được chào mời tham gia với Chính phủ trong việc này.

Di sản của cơ chế cũ

- Vậy lí do của việc VN áp dụng quy trình có một không hai đó là gì? Phải chăng nó xuất phát từ cơ chế của VN?

Khu vực tư nhân của VN rất linh hoạt. Khi bước vào nhà hàng, đi taxi... ông chủ và nhân viên đều biết cách thích ứng với những đòi hỏi của khách hàng càng nhiều càng tốt. Ngược lại, khối nhà nước rất kém linh hoạt. Tôi tự hỏi tại sao VN không biến đặc trưng linh hoạt của khu vực tư nhân thành đặc trưng quốc gia?

Có lẽ nguyên nhân một phần bởi cấu trúc Chính phủ. Thời kì kế hoạch hóa đã qua nhưng có vẻ hệ thống cũ vẫn còn duy trì.

Di sản của thời kì kế hoạch hóa còn lớn trong khu vực nhà nước và chỉ có ở VN. Các quốc gia khác như Nga, Đông Âu, khi Chính phủ kế hoạch hóa sụp đổ, họ bắt đầu làm việc theo một cách thức mới.

"Sau 20 năm Đổi mới, Chính phủ VN không thay đổi về mặt cơ học (physically). Năng lực vẫn như cũ với những con người cũ tiếp tục làm việc, do đó, tiến trình thay đổi chậm hơn các nước".

Không bị vướng bận bởi di sản kế hoạch hóa sâu đậm, các nước này áp dụng mô hình kinh tế phương Tây, tự do hóa thương mại nhanh hơn. Trong khi đó, Chính phủ VN không thay đổi về mặt cơ học. Năng lực vẫn như cũ với những con người cũ tiếp tục làm việc, do đó, tiến trình thay đổi chậm hơn các nước.

Sau hơn 20 năm đổi mới, nền tảng của kinh tế thị trường là quy luật tuân thủ theo đòi hỏi thị trường, hướng tới người tiêu dùng chưa được xây dựng. Trong xây dựng chiến lược ngành, nhân tố đầu tiên tính đến là mong muốn của Chính phủ, DN sau đó mới tính đến người tiêu dùng.

Trong khi đó, nền kinh tế thị trường phải do yếu tố cầu quyết định. Người tiêu dùng và khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng quyết định quy luật cạnh tranh, xác định người thắng kẻ thua trong cuộc đua tranh mở rộng hay thu hẹp sản phẩm.

Thiết lập kênh giao tiếp hiệu quả với DN

- Giải pháp gợi ý nào cho VN để cải tiến phương thức hoạch định chính sách, thưa ông?

VN nên bắt đầu một quy trình hoạch định chính sách mới, với sự tham gia cả tất cả các bên liên quan, bao gồm: Chính phủ, DN, người tiêu dùng, người nước ngoài, các nhà tài trợ, các nhà khoa học, chuyên gia. Đôi khi, các DN hoặc các nhà khoa học có thể vạch ra một chiến lược trình Chính phủ. Chính sách không đơn thuần chỉ là một văn bản hành chính của Nhà nước.

Trong xây dựng chiến lược ngành, Chính phủ cần xây dựng cơ chế cho phép khu vực DN tự quyết định nội dung chiến lược ngành mình thay vì để Chính phủ quyết định như hiện nay.

Chí ít, Chính phủ cần lắng nghe cộng đồng DN thường xuyên, nắm rõ điều gì các DN cần, muốn và hoạch định giúp các DN. Đó là điều Bộ Ngoại thương và Công nghiệp Nhật Bản làm trước đây. Họ đối thoại với DN liên tục, do đó, hiểu mong muốn của DN, và Chính phủ có thể hoạch định.

Ở VN, Chính phủ không biết các DN thực sự muốn gì. Do đó, bước đi đầu tiên là xây dựng một kênh cho phép các DN và Chính phủ đối thoại thường xuyên

Khâu quan trọng trong hoạch định chính sách là joint writing. Sau 3-5 năm, cần tiến hành rà soát lại kế hoạch để có sự điều chỉnh thích hợp khi hoàn cảnh thay đổi.

Đây không phải là điều gì mới mẻ. Tất cả các nước đều thực hiện theo quy trình đó.

- Theo ông, VN cần xây dựng một kênh như thế nào để lắng nghe ý kiến DN?

Ở cấp cao, cần xây dựng Diễn đàn DN đối thoại với Thủ tướng, trong đó, các giám đốc điều hành của các DN lớn trong và ngoài nước có thể trao đổi trực tiếp với Thủ tướng về những vấn đề lớn. Đồng thời, họ có thể gửi thư trực tiếp lên Thủ tướng.

Đối với cấp thấp và cấp trung, cần có tổ công tác về tham vấn, nơi DN và Chính phủ và chuyên gia đối thoại cụ thể các vấn đề để hoạch định chính sách. Cần có rất nhiều nhóm như vậy và các nhóm này thảo luận nhằm xây dựng luật hoặc chiến lược ngành.

Sau khi gặp 10-20 lần, thảo luận nhiều vấn đề, tôi nghĩ, Chính phủ hiểu các DN muốn gì và các DN biết Chính phủ định làm gì. Và lúc đó, ai chắp bút viết bản chính sách không còn quan trọng.

Tuy nhiên, vào thời điểm này, Chính phủ VN không đối thoại nhiều với các DN. Tại Nhật, đại diện các Bộ có thể gọi điện trực tiếp tới bất kì DN nào và đề nghị hợp tác hoặc cung cấp thông tin. Bộ Công thương VN không hề liên hệ trực tiếp với DN để trao đổi thông tin. Tại sao các bạn không thử áp dụng mô hình này? Chính phủ không chỉ nói với một DN mà với nhiều DN, và thậm chí sẽ tốt hơn nếu Chính phủ trao đổi với DN thông qua Hiệp hội ngành nghề như Hiệp hội dệt may, thủy sản...

- Bản thân các Hiệp hội của VN chưa đủ mạnh để thể hiện tiếng nói đại diện cho cộng đồng DN?

Chính phủ trao trọng trách, tin tưởng Hiệp hội và ngược lại, các DN sẽ sẵn lòng sử dụng kênh của Hiệp hội để phản ánh quan điểm, chủ động tìm đến Hiệp hội

Ban đầu, Chính phủ nên hỗ trợ các Hiệp hội. Khi các Hiệp hội đủ mạnh, khu vực tư nhân có thể tự mình lên tiếng. Ở VN cũng có những Hiệp hội ngành nghề hoạt động tốt, như Hiệp hội thép VN.

Chính phủ nên sử dụng các Hiệp hội trong quá trình hoạch định chính sách, thu thập ý kiến của các ngành nghề thông qua Hiệp hội như một kênh quan trọng.

Chính phủ trao trọng trách, tin tưởng Hiệp hội và ngược lại, các DN sẽ sẵn lòng sử dụng kênh của Hiệp hội để phản ánh quan điểm, chủ động tìm đến Hiệp hội.

Cần nhóm kĩ trị trẻ, năng động và được trao trọng trách

- Trong bài phát biểu tại Hội thảo về Chiến lược CNH của VN đến 2020, ông đã nói về việc thành lập một nhóm các nhà kĩ trị trực tiếp trực thuộc Thủ tướng. Vậy vai trò cụ thể của nhóm kỹ trị này như thế nào, thưa ông?

Tại các nước Đông Á thành công, Chính phủ đều xây dựng hệ thống như vậy. Nhật Bản có một cơ quan lập chính sách trước chiến tranh. Sau chiến tranh, Bộ Thương mại quốc tế và Công nghiệp trở thành một siêu bộ, đưa ra các chính sách công nghiệp, thương mại, tài chính, môi trường, công nghệ... Đó là một nhóm lập kế hoạch và triển khai mạnh.

Hàn Quốc có một cơ quan phụ trách chính sách kinh tế với đội ngũ cán bộ giỏi, và họ đưa ra rất nhiều chính sách (tiền thân của Bộ Ngoại giao và Kinh tế ngày nay).

Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đều áp dụng mô hình này, tại sao VN lại không?

VN nên xây dựng nhóm kĩ trị chịu trách nhiệm trực tiếp với Thủ tướng, được tuyển chọn từ các chuyên viên, công chức trẻ, có trình độ, từ các Bộ ngành để tham gia, lồng ghép ý tưởng. Nhóm này sẽ chịu trách nhiệm xây dựng chính sách cho toàn Chính phủ, thường xuyên có tương tác hai chiều với Thủ tướng và các Bộ, cơ quan thực thi chính sách.

VN là đất nước có một không hai khi vẫn phát triển nhanh dù không có một thể chế như vậy. Bản thân Chính phủ Trung Quốc có mối liên hệ chặt với các viện và có nhiều người tư vấn chính sách, trong khi VN có rất ít nhà tư vấn chính sách.

- Nhóm này khác gì với nhóm tư vấn của Thủ tướng Chính phủ trước đây?

VN đã từng có nhóm tư vấn cho Thủ tướng nhưng tôi không nghĩ nhóm này làm chức năng của một nhóm kỹ trị trẻ.

Trực tiếp dưới quyền Thủ tướng nhưng theo tôi, nhóm này hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Các bạn cần xây dựng lại một nhóm kiểu như vậy nhưng cần những người trẻ và năng động hơn và được trao nhiều trách nhiệm hơn. Điều này hoàn toàn khả thi. VN phải lựa chọn được những người thực sự tốt, trao trách nhiệm cho họ và tôi tin họ sẽ làm tốt.

Tôi không nghĩ là các bạn cần người nước ngoài trong nhóm này mặc dù tư vấn nước ngoài trong một số trường hợp có thể hữu ích. Tất cả những tham vấn bên ngoài như từ WB, IMF, ADB... nên làm việc trực tiếp với nhóm kĩ trị này thay vì làm việc với nhiều bộ khác nhau. Đó là cách thức thường thấy ở Đông Á.

- Xin cảm ơn Giáo sư!

Phương Loan (thực hiện)
Nguồn:Tuanvietnam.net

Không có nhận xét nào: