9 tháng 5, 2008

CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN


CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
I. KHÁI NIỆM VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN

Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp giúp đỡ từng cá nhân con người thông qua mối quan hệ một-một (nhân viên xã hội – thân chủ). Công tác xã hội cá nhân được các nhân viên xã hội chuyên nghiệp sử dụng trong các cơ sở xã hội hoặc trong các tổ chức công tác xã hội để giúp những người có vấn đề về thực hiện chức năng xã hội. Những vấn đề thực hiện chức năng xã hội nói đến tình trạng liên quan đến vai trò xã hội và việc thực hiện các vai trò ấy.

Các vai trò xã hội chủ yếu là các vai trò kết hợp nhau như : vợ- chồng, cha -mẹ, và người kiếm tiền nuôi gia đình. Liên hệ với những vai trò nầy là nhiều vai trò khác, như vai trò con cái, anh em trai, chị em gái. Ngoại trừ các vai trò này bắt nguồn từ gia đình còn có các vai trò xã hội khác liên kết tư cách của một người trong các nhóm xã hội lớn hơn - vai trò người láng giềng, vai trò người dân của một thành phố hay một xã, ấp và vai trò công dân của một đất nước. Mỗi một con người mang nhiều vai trò khác nhau, và trong chừng mực nào đó, cuộc sống chỉ là mạng lưới các vai trò năng động và các mối quan hệ giữa các vai trò. Có nhiều người vì lý do nầy hay lý do khác không thể hành xử một hoặc nhiều chức năng xã hội của họ một cách đầy đủ, và để giúp đỡ những người nầy, nghề công tác xã hội đã ra đời. Phương pháp sớm nhất và xưa nhất của công tác xã hội là công tác xã hội cá nhân.

Mặc dù công tác xã hội như là một nghề, là sản phẩm của thế kỷ 20 nhưng công tác xã hội được xem như là một hoạt động trợ giúp xưa như loài người.

Trong mỗi xã hội luôn luôn có, dù ít dù nhiều, những người luôn quan tâm giúp đỡ người khác. Có những người được xem là dễ cảm thụ và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu và những khó khăn của đồng loại. Những người giúp đỡ nầy đều hiện hữu trong thời kỳ lịch sử nhân loại, là tiền thân của nhân viên xã hội hiện đại. Nhân viên xã hội hiện đại sử dụng công tác xã hội cá nhân để giúp đỡ những người gặp khó khăn. Vì vậy, người ta có thể thấy rằng, công tác xã hội cá nhân trong ý nghĩa hạn chế của một hoạt động giúp đỡ, đã có từ thời xa xưa. Nhưng công tác xã hội cá nhân như là một hoạt động được chuyên môn hóa là một sự kiện của thế kỷ 20 và với sự phát triển nầy trọng tâm của sự quan tâm là những người khốn cùng không thể tự giúp được.

Theo dòng tiến hóa của một hoạt động xã hội lâu đời - mà có những người đã đảm nhận suốt đời - từ một hoạt động riêng tư thành một sự theo đuổi nghề nghiệp đầy hấp dẫn. Công tác xã hội cá nhân của thời kỳ chưa chuyên nghiệp hóa tùy thuộc rất nhiều vào phẩm chất trái tim người giúp đỡ - tính rộng lượng, sự tử tế và sẵn lòng từ tâm giúp đỡ người khác. Nhưng công tác xã hội cá nhân hiện đại là một phương pháp chuyên nghiệp cần ngoài nhiệt tâm ra là kiến thức và kỹ năng vững chãi. Kiến thức trong lĩnh vực nầy cũng không phải là điều gì ẩn chứa bí mật và sâu sắc mà là kiến thức về con người, hành vi con người ở những cấp độ khác nhau - như cá nhân, các thành viên của các nhóm và đoàn thể. Những kỹ năng nói đến sự thông thạo các phương thức giúp đỡ đã được phát triển qua nhiều năm và chúng được sử dụng có cân nhắc, nhắm đến những mục tiêu rõ ràng. Danh từ công tác xã hội cá nhân có ý nghĩa là phương pháp công tác xã hội có tính chuyên nghiệp để làm việc với cá nhân, khác với hoạt động giúp đỡ luôn luôn tồn tại và hành xử thông qua lòng tốt của một số người giúp đỡ người khác do động cơ cá nhân hơn là động cơ nghề nghiệp.

Mốc chính trong sự phát triển của công tác xã hội cá nhân xuất hiện trong bối cảnh của đô thị hóa, công nghiệp hóa ở các nước phương Tây, đặc biệt ở Anh và Mỹ. Nguồn gốc có thể thấy qua sự tuyển dụng các nhân viên để đi thăm viếng thân mật của Hiệp hội các tổ chức từ thiện. Hiệp hội này, như tên gọi của nó, được thành lập bởi các công dân Anh quốc có lòng từ thiện với mục tiêu là giúp đỡ những người nghèo khó. Họ có ngân sách tùy nghi sử dụng để giúp người nghèo. Đầu tiên, những nhân viên công tác xã hội này là những người thăm viếng thân thiện, do những người từ tâm tình nguyện, họ đi thăm người nghèo để đánh giá các nhu cầu và cung ứng với một phương thức hạn chế. Những người thăm viếng thân thiện này thực hiện các cuộc viếng thăm với nghĩa cử từ thiện không hề mong được thù lao tiền bạc. Nhưng cuối cùng, số người đi làm như thế không đủ vào đâu nên cần tuyển dụng người để thực hiện công việc. Kết cục là những nhân viên làm việc ăn lương xuất hiện. Nét đặc trưng của sự phát triển tiếp theo xuất phát từ sự nhận thức rằng những người có liên quan trong công việc giúp đỡ người khác phải giỏi, họ phải được trang bị kiến thức và năng lực thực hành thông qua các chương trình đào tạo. Sau đó, những kế hoạch huấn luyện được đề xuất để trang bị cho tác viên kiến thức và phương pháp giúp đỡ. Do những nhân viên xã hội đầu tiên này giải quyết những trường hợp của các gia đình có nhu cầu nên ở Mỹ họ được gọi là những nhân viên xã hội. Việc này ở vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Hiện nay, danh từ chung “nhân viên xã hội” được sử dụng không phân biệt phương pháp mà người ấy đang áp dụng.

Bước tiếp theo trong lịch sử của công tác xã hội cá nhân là việc đưa công tác xã hội vào giảng dạy ở các trường đại học ở Hoa Kỳ vào thập kỷ 20 của thế kỷ 20. Trong đó thì nội dung của công tác xã hội cá nhân bao gồm kiến thức và thực hành cũng dần phát triển.

II. ĐỊNH NGHĨA CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN

 “ Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp giúp đỡ cá nhân con người thông qua mối quan hệ một - một. Nó được nhân viên xã hội ở các cơ sở xã hội sử dụng để giúp những người có vấn đề về chức năng xã hội và thực hiện chức năng xã hội”. (theo Grace Mathew)

 “ Công tác xã hội cá nhân là một tiến trình được các cơ quan lo về an sinh con người sử dụng để giúp các cá nhân đối phó hữu hiệu hơn với các vấn đề thuộc về chức năng xã hội của họ”. (theo HELEN HARRIS PERLMAN)

III. CÁC THÀNH PHẦN TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN

• Con người (person) : gồm thân chủ và nhân viên xã hội
• Vấn đề của thân chủ (problem)
• Cơ quan giải quyết vấn đề (place)
• Công cụ : Tiến trình giải quyết vấn đề (problem-solving process)

IV. TIẾN TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CỦA THÂN CHỦ

• Tiếp cận thân chủ
• Nhận diện vấn đề
• Thu thập thông tin
• Đánh giá chẩn đoán
• Vạch kế hoạch giải quyết vấn đề
• Lượng giá – tiếp tục giúp đỡ hoặc chấm dứt sự giúp đỡ

V. NỘI DUNG KIẾN THỨC VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN

Nội dung kiến thức của công tác xã hội cá nhân được chia thành 4 phần : (1) Những giả định triết học (2) Các nguyên tắc (3) Tóm tắt lý thuyết (4) Các công cụ và kỹ thuật thực hành.
1. NHỮNG GIẢ ĐỊNH TRIẾT HỌC
a) Mỗi con người phải được xem như là một con người với đầy đủ phẩm giá và giá trị.
b) Con người lệ thuộc vào nhau. Điều kiện của sự lệ thuộc cho thấy có một khuôn khổ quyền - nghĩa vụ chi phối những mối tương tác giữa con người với nhau trong các nhóm xã hội.
c) Con người có những nhu cầu chung cần được đáp ứng để tăng trưởng và phát triển của cá nhân. Sự tồn tại của các nhu cầu chung không phủ định tính độc nhất của cá nhân. Mỗi cá nhân giống người nầy ở lĩnh vực nầy, giống người khác ở một số khía cạnh khác và không giống ai cả ở từng khía cạnh nhất định nào cả.
d) Mỗi cá nhân có tiềm năng phát triển và thành đạt và người đó có quyền biến tiềm năng ấy thành hiện thực. Điều nầy dẫn đến việc con người có năng lực thay đổi.
e) Xã hội có nhiệm vụ giúp đỡ những người không có phương tiện thể hiện tiềm năng của họ.

2. NHỮNG NGUYÊN TẮC

Những nguyên tắc công tác xã hội cá nhân cũng quan trọng như các giả định triết học. Các nguyên tắc này là các quy luật hướng dẫn hành động.

Nguyên tắc thứ nhất là cá nhân hóa . Mỗi thân chủ phải được hiểu như là một cá nhân độc nhất, với cá tính riêng biệt và không phải là cá nhân của một đám đông.

Chấp nhận thân chủ với mọi phẩm chất tốt và xấu của anh ta, những điểm mạnh và điểm yếu, không xem xét đến hành vi của anh ta. Chấp nhận đòi hỏi tiếp nhận một thân chủ, theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, không tính toán, không điều kiện hạn chế nào cả và không đưa ra bất cứ sự tuyên án nào về hành vi của anh ta. Làm nền tảng cho nguyên tắc chấp nhận là giả định triết học cho rằng mỗi cá nhân có giá trị bẩm sinh, không kể đến địa vị xã hội hoặc hành vi của anh ta. Thân chủ được quyền lưu ý và thừa nhận là một con người cho dù anh ta có phạm tội chăng nữa. Chấp nhận không có nghĩa là tha thứ cho hành vi mà xã hội không thể chấp nhận, điều đó có nghĩa là sự quan tâm và thiện chí hướng về con người ẩn sau hành vi.
Nguyên tắc chấp nhận hơi giống nguyên tắc tiếp theo là thái độ không kết án. Một thái độ không phê phán có nghĩa là từ chối không tỏ vẻ bất bình với thân chủ; đổ lỗi bằng cách tranh luận về nguyên nhân - kết quả hoặc đưa ra lời phê phán cho rằng người ấy đáng bị trừng phạt do hành vi của ông ta. Thuật ngữ “kết án một cá nhân” và thái độ xem thường người khác là không được chấp nhận trong công tác xã hội. Tuy nhiên nó không có nghĩa là nhân viên xã hội biện hộ chạy tội cho phạm nhân. Khi nhân viên xã hội nói chuyện và đối xử với cung cách như thế thì thân chủ thấy họ được chấp nhận hoàn toàn và thân chủ sẽ bộc lộ vấn đề của họ.
Sự công nhận quyền thân chủ tự quyết là một nguyên tắc khác trong công tác xã hội cá nhân. Nguyên tắc này cho rằng cá nhân có quyền quyết định về những vấn đề thuộc về cuộc đời của anh (chị) ta và người khác không được áp đặt quyết định của họ cho anh (chị) ta. Trong công tác xã hội cá nhân, nhân viên xã hội không nên ra quyết định, lựa chọn hay vạch kế hoạch dùm cho thân chủ, tuy nhiên thân chủ có thể được hướng dẫn và giúp đỡ để đưa ra quyết định riêng.
Sự tự quyết, cũng như sự tự do, có những giới hạn riêng của họ. Đó không phải là một quyền tuyệt đối. Quyết định mà thân chủ đưa ra phải nằm trong phạm vi quy định của xã hội là hậu quả của quyết định ấy không gây tổn hại đến những người khác. Nó cũng không được có hại cho chính bản thân thân chủ. Hơn thế nữa, hành vi tự quyết định phải ở trong những chuẩn mực hành vi mà xã hội có thể chấp nhận được. Ngoài ra, mỗi quyết định có tính tự quyết có ý là người ra quyết định, thân chủ, tự lãnh trách nhiệm thực hiện quyết định và gánh lấy hậu quả.
Kết hợp chặt chẽ với nguyên tắc tự quyết là sự tham gia của thân chủ trong việc giải quyết vấn đề mà ông (bà) ta đang đương đầu đối phó. Trong một phương cách nào đó, sự tự quyết là một hình thức của sự tham gia vì nó đòi hỏi sự ra quyết định của thân chủ. Tiến trình giúp đỡ và được giúp đỡ không dừng lại ở thời điểm thân chủ ra quyết định mà nó tiến xa hơn nữa nhờ những kế hoạch được theo đuổi và những hành động được thực hiện. Theo nguyên tắc tham gia, thân chủ trở thành diễn viên chính trong việc theo đuổi kế hoạch và thực hiện hành động, trong khi ấy nhân viên xã hội chỉ là người tạo thuận lợi.
Nhân viên xã hội cũng được mong đợi giữ gìn sự bí mật những thông tin nhận từ thân chủ. Trong tiến trình của công tác xã hội cá nhân, có nhiều điều mà thân chủ nói với nhân viên xã hội. Điều cần thiết là chúng không được tiết lộ cho những người khác, ngoại trừ khi thân chủ cho phép khi mà tình thế bảo đảm chia xẻ thông tin với người thứ ba như là các thành viên của gia đình hoặc một chuyên gia khác v..v...
Nhân viên xã hội khởi đầu mối quan hệ với thân chủ, biểu thị bằng sự chấp nhận và sự khẳng định, vô tư với những lời bóng gió kết án hoặc sửa chữa lỗi lầm. Một mối quan hệ như thế có vẻ quá máy móc. Nó phải được xây dựng nên thông qua sự xúc cảm của nhân viên xã hội. Sự xúc cảm được cần đến tới mức mà nhân viên xã hội có thể cảm nhận mức độ xúc cảm của thân chủ và nhìn tình thế như ông (bà) ta nhìn nó. Tuy nhiên, nhân viên xã hội phải có cái nhìn khách quan để khỏi bị mù quáng bởi cảm xúc quá độ về tình huống. Nhân viên xã hội có thể giúp cho thân chủ nhìn vấn đề của ông (bà) ta một cách khách quan và vạch kế hoạch một cách thực tế. Từ đây, ý tưởng về một sự can dự có kiểm soát bởi nhân viên xã hội trở thành một nguyên tắc.
Điểm chính yếu của các nguyên tắc
Có thể thấy được rằng sự chấp nhận, một quan điểm không kết án, cá nhân hóa và sự xúc cảm có kiểm soát là những lĩnh vực khác nhau của cách tiếp cận mà nhân viên xã hội chọn trong quan hệ với thân chủ. Sự tự quyết và sự tham gia của thân chủ rất cần thiết để thân chủ giải quyết khó khăn của họ. Nhân viên xã hội nên hướng dẫn những hoạt động của chính thân chủ mà yếu tố chủ yếu của nó là truyền thống, khuyến khích sự tự quyết và tham gia nơi thân chủ. Sự kín đáo là nguyên tắc mà nhân viên xã hội phải tôn trọng khi đối diện với thông tin mà thân chủ đưa ra. Chỉ biết rằng những nguyên tắc này thôi không đủ cũng như không thể áp dụng chúng trong thực tế nếu không có sự giúp đỡ của các biện pháp được hệ thống hóa, được gọi là các kỹ thuật.
3. LÝ THUYẾT CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
a) Tìm hiểu về hành vi con người - Những nền tảng của hành vi cá nhân
Mệnh đề một: Hành vi của một cá nhân được quy định bởi hoàn cảnh và kinh nghiệm sống của người ấy.
Mệnh đề hai: Để con người tăng trưởng và phát triển điều quan trọng là các nhu cầu cơ bản được đáp ứng.
Mệnh đề ba: Những như cầu tình cảm là có thực và chúng không thể đáp ứng hoặc gạt bỏ thông qua lý luận tri thức.
Mệnh đề bốn: Hành vi có mục đích và đáp lại những nhu cầu vật chất và tình cảm của cá nhân.
Mệnh đề năm: Hành vi của người khác có thể biết được chỉ bằng vào khả năng thấu hiểu tình cảm và trí tuệ của người ấy.
Khi chúng ta thấy người nào đó đối xử với một cung cách mà xã hội không chấp nhận, chúng ta đưa ra lời suy đoán riêng của mình về nguyên nhân các hành vi của họ. Những suy đoán của chúng ta không dựa vào một sự xem xét nghiêm túc đến các yếu tố xã hội và tình cảm. Ngoài ra, chúng ta xếp loại và dán nhãn lên họ. Tiến trình này dẫn đến việc phê phán cá nhân và không hiểu được hành vi của họ. Các cố gắng để hiểu con người phải được đến trước bằng một thái độ cởi mở, tránh các thành kiến và một sự sẵn sàng tìm hiểu với sự hỗ trợ của các dữ kiện.
b) Những khái niệm hành vi để hiểu thân chủ
• Những nhu cầu của con người

Sự tăng trưởng và phát triển của mỗi một cơ thể sống xảy ra nhờ sự đáp ứng được các nhu cầu. Con người có hai loại nhu cầu: sinh học (thể chất) và tâm lý xã hội. Con người lúc còn nhỏ cần không khí, nước, thực phẩm chỗ ở và áo quần để phát triển về mặt thể chất. Đến thời kỳ trưởng thành, anh ta (chị ta) phát triển nhu cầu tình dục. Những nhu cầu tâm lý xã hội của một đứa trẻ mà thú vật không có là: (1) tình yêu thương và an toàn (2) được thuộc về một nhóm (3) tính tự trọng (4) những cơ hội phát triển về thể chất và tinh thần (5) được hướng dẫn và chỉ dẫn.

Cần lưu ý rằng từ “những nhu cầu tinh thần” được dùng trong trường hợp tương tự được thay thế ở đây bằng từ “những nhu cầu tâm lý xã hội”. Chữ “tâm lý xã hội” nói đến một khái niệm rộng lớn hơn ngụ ý rằng nhu cầu tâm lý có nội dung xã hội. Bản chất và nội dung của xã hội sẽ được làm rõ hơn bởi giải thích trong các đoạn sau đây.

Môi trường là một yếu tố cần được xem xét với điều kiện đáp ứng đây đủ các nhu cầu. Môi trường của một cá nhân là những gì xung quanh anh (chị) ta bao gồm hoàn cảnh vật chất, những vật hữu sinh và vô sinh, những điều kiện và hoàn cảnh ảnh hưởng đến cuộc sống của anh (chị) ta dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Sự đáp ứng các nhu cầu bị ảnh hưởng bởi các phương tiện mà môi trường có. Môi trường vừa cung cấp tài nguyên để đáp ứng nhu cầu đồng thời cũng tạo ra yêu cầu. Kết quả là mỗi sinh vật phát triển hành vi thích nghi hoặc những phương thức đáp ứng những nhu cầu của riêng nó và các yêu cầu của môi trường. Hành vi thích nghi của loài vật hầu hết thường thông qua bản năng, trong khi đối với con người thì hành vi thích nghi tùy thuộc vào phần lớn học tập và tiến trình trưởng thành mà sự phát triển hành vi con người được định hình. Tiến trình trưởng thành có liên quan với sự phát triển liên tục các năng lực và kỹ năng của con người; nó bắt đầu sớm hơn việc học. Mặc dù các bộ phận của cơ thể và các chức năng phát triển ở các mức độ khác nhau, một kiểu hình thức phát triển liên tục về mặt sinh học vẫn xảy ra.

Minh họa

Ở thời điểm đứa bé 5 tuổi, cậu ta được mong đợi phát triển các kỹ năng. Tiến trình phát triển liên tục, đó là sự trưởng thành, sẽ diễn ra hoặc nhiều hoặc ít êm thắm, giúp con người thụ hưởng tốt không có bất kỳ sự khiếm khuyết nào. Bất kỳ sự khiếm khuyết hoặc biến dạng trong cơ thể chắc chắn gây tổn hại đến tiến trình trưởng thành. Dù một vài kỹ năng thể chất ban đầu như bò, đứng, đi.. v.v... là đã trưởng thành, nhưng các kỹ năng thuộc về con người như tự mặc quần áo, nói một ngôn ngữ, đọc, viết và các khả năng cho cuộc sống thường ngày không diễn ra nơi đứa bé mà không có ảnh hưởng của người khác. Để có được những kỹ năng về tinh thần và nhiều kỹ năng về mặt thể chất, thì việc học tập là cần thiết và việc học này diễn ra nhờ sự giúp đỡ của người khác. Tiến trình được gọi là “xã hội hóa” nói đến thời kỳ học tập ban đầu lúc mà trẻ em ý thức được về xã hội và các mối quan hệ của chúng với những người khác, nhờ sự ảnh hưởng và sự dạy dỗ của người khác trong môi trường của trẻ. Cha mẹ trẻ, thầy giáo và với một mức độ nào đó, bạn cùng trang lứa của trẻ được xem là những tác nhân xã hội hóa.

Cho dù đứa trẻ được quan tâm, gia đình vẫn rất quan trọng bởi vì nó là nguồn cung cấp để đáp ứng những nhu cầu của nó về thể chất lẫn tâm lý xã hội. Cha mẹ có trách nhiệm cung cấp những nguồn này. Ngay sau khi sinh, sự thỏa mãn nhu cầu cho đứa trẻ là từ người mẹ. Theo thời gian thì người cha và anh chị cũng là những nguồn để sự đáp ứng nhu cầu. Đối với một đứa trẻ khỏe mạnh thể chất và có môi trường thuận lợi thì sự tăng trưởng và phát triển sẽ tiến triển không gặp nhiều cản trở. Bằng thuật ngữ “tăng trưởng và phát triển” người ta nói đến cả sự tăng trưởng và phát triển thể tạng lẫn sự tăng trưởng và phát triển nhân cách.

• Cấu trúc của nhân cách

Nhân cách là bức ảnh tổng thể về đặc điểm hành vi của cá nhân. Hành vi bao gồm suy nghĩ, cảm nhận, nói và làm. Hiểu nhân cách của một con người có nghĩa là tự mình tìm cách biết được cách thông thường mà người ấy suy nghĩ, cảm nhận, nói và làm. Sự tăng trưởng thể chất ở trẻ con có thể dễ dàng quan sát và đánh giá. Ngoài ra, những bước đi được thực hiện để thúc đẩy sự phát triển thể chất là cụ thể, dễ lĩnh hội. Tuy nhiên khái niệm về nhân cách thì phức tạp và sự phát triển của tính cách là không thể dễ dàng đánh giá được. Phải cần đến kiến thức và những kỹ năng đặc biệt để nhận ra các lĩnh vực khác nhau của sự phát triển nhân cách.

• Quan niệm của Freud : bản năng, bản ngã và siêu ngã

Lý thuyết của Sigmund Frend về cấu trúc của nhân cách rất có ích để hiểu được hiện tượng phức tạp gọi là nhân cách. Theo Freud, nhân cách con người là một thực thể bao gồm ba hệ thống : bản năng, bản ngã và siêu ngã. Người ta thấy rằng có sự tương tự giữa cấu trúc của nhân cách và cấu trúc của cơ thể con người được chia thành nhiều hệ thống khác nhau. Có thể con người được chia ra nhiều bộ phận hoặc hệ thống khác nhau, như hệ thống tiêu hóa, hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn của máu; mỗi bộ phận ấy thể hiện và thực thi một loạt các chức năng riêng biệt. Tương tự ba bộ phận của nhân cách : bản năng, bản ngã và siêu ngã thực hiện những chức năng khác nhau. Không như những hệ thống cơ thể con người, ba bộ phận của nhân cách không thể minh họa bằng hình ảnh hoặc phác họa bởi vì sự phân chia ra ba bộ phận là một quan niệm trừu tượng. Nhưng ý tưởng thì có thể hiểu được xét về các chức năng khác biệt và các nhóm chức năng đã xác định rõ.

Bản năng là gì?

Bản năng là phần ban sơ nhất của nhân cách - phần mà chúng ta có chung với loài vật. Đó là nơi của những bản năng và được coi là hoạt động trên nguyên tắc khoái lạc hay nguyên tắc thỏa mãn tức thì. Sự đáp ứng các nhu cầu sinh học là mối quan tâm chủ yếu của bản năng. Khi một người đói, bản năng của một người được khơi dậy và bắt người ấy cố gắng đi tìm cái ăn. Bản ngã và siêu ngã hình thành trong suốt tiến trình khai hóa con người, khi con người tiến bộ dần dần thoát ra trình độ man dã thuở ban sơ. Siêu ngã hình thành những giá trị của cá nhân, những quy tắc đạo đức và những điều được xem là đúng và sai.

Bản ngã là gì ?

Bản ngã duy trì sự cân bằng giữa bản năng và siêu ngã liên quan đến những đòi hỏi của hoàn cảnh. Khi một người đói, người ấy thỏa mãn cái đói bằng những cách thức được xã hội chấp nhận và những cách không được xã hội chấp nhận như ăn cắp thực phẩm. Thực phẩm ấy không bị ăn cắp là do một sự kiểm tra hành vi của siêu ngã. Trong hoàn cảnh này, bản ngã bị ảnh hưởng bởi những sự ngăn cấm nảy sinh từ siêu ngã và cũng bởi do sự cân nhắc thực tế, như nguy cơ bị bắt và bị trừng phạt. Có thể hiểu được, bản ngã được xem là hoạt động trên nguyên tắc thực tế. Mở rộng ra cái đói của thế giới loài vật, người ta nhận ra rằng một con vật đói sẽ đi tìm cái ăn bằng cách này hay cách khác, không để ý đến bất kỳ hệ thống giá trị nào đúng hay sai vì loài vật không có bản ngã và siêu ngã.

Bản ngã có những chức năng khác nhau : chế ngự ham muốn bất chợt, chấp nhận sự thất vọng, trì hoãn sự hài lòng, xử lý sự căng thẳng thần kinh, kiểm tra thực tế, những quan hệ khách thể và sự hợp thành một thể thống nhất và sự tổng hợp. Sự chế ngự ham muốn nói đến chức năng kiểm soát chế ngự các ham muốn bản năng liên quan đến hiện thực. Những ham muốn bản năng gắn liền với các nhu cầu của cơ thể và chúng hoạt động để thỏa mãn lập tức các nhu cầu này. Bản ngã chế ngự các bản năng và hướng chúng theo những nguồn tư tưởng được xã hội chấp nhận. Sự chịu đựng nỗi thất vọng và sự trì hoãn ước muốn hoạt động hàng ngày trong cuộc đời con người. Thí dụ: một đứa trẻ bỏ học vì chán nản trong việc học hành và tìm sự thỏa mãn tạm thời thì nó sẽ chẳng được giáo dục gì cả. Những thành tựu to lớn của loài người sẽ không có được nếu không vì sự thực hiện hiệu quả các chức năng này. Những người đạt được thành tựu là những người thay vì bị những thất vọng đè bẹp thì họ đã nỗ lực tiến lên để đạt những mục đích bằng cách áp dụng những chiến lược giải quyết vấn đề mỗi khi những chiến lược cũ đã thất bại. Họ cũng không đi chệch những mục đích lâu dài vì sự thỏa mãn tức thời.

Sự kiểm soát bản ngã, siêu ngã

Tình trạng căng thẳng là một phần của sự tồn tại con người và kiềm chế nó là một chức năng của bản ngã, dẫn đến ngăn chặn sự căng thẳng để nó không gây ảnh hưởng đến toàn bộ việc thực hiện chức năng của con người. Thí dụ, một nam sinh căng thẳng chờ kết quả thi cử. Nếu cậu ấy không thể ăn được, ngủ được là bởi vì cậu ta bị căng thẳng, điều đó có nghĩa là bản ngã của cậu ta khá yếu trong việc kiềm chế sự căng thẳng.

Kiểm nghiệm thực tế có nghĩa là đánh giá thực tế liên quan đến một người và môi trường như nó vốn có và có những hoạt động thích hợp để đương đầu với thực tế. Chẳng hạn, nếu một người đàn ông thất nghiệp nộp đơn tìm những việc mà anh ta không đủ tiêu chuẩn thay vì những công việc thích hợp với trình độ anh ta, điều đó cho thấy sự kiểm nghiệm thực tế không đầy đủ.

Con người lệ thuộc lẫn nhau và mối quan hệ là một bộ phận cần thiết của cuộc sống con người. Những mối quan hệ khách thể được xem như là một chức năng bản ngã có liên quan đến vấn đề này và đề cập đến sự hình thành những mối quan hệ ở những mức độ khác nhau và thay đổi và bản chất và cường độ.

Tổng hợp do bản ngã

Chức năng tổng hợp do bản ngã thực hiện là một hiện tượng phức tạp bao gồm, sự hợp thành các kinh nghiệm sống khác nhau, những cảm nghĩ tích cực và tiêu cực, những biến cố hạnh phúc và bất hạnh, những mối đe dọa và sợ hãi, những niềm vui và nỗi buồn. Giống như hệ thống tiêu hóa nghiền thức ăn và rồi tách ra những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, cuối cùng phân bổ ra nuôi sống cơ thể; bản ngã thực hiện chức năng tổng hợp cho nhân cách bằng cách làm cho nhân cách có thể hấp thụ những kinh nghiệm khác nhau. Thí dụ : một đứa trẻ suýt chết đuối vượt qua biến cố và sự sợ nước bằng cách học bơi và trở thành một tay bơi giỏi. Nhiều sự phát triển tích cực sau một kinh nghiệm không hay cho thấy sự thực hiện thành công chức năng của bản ngã của nó về sự hội nhập và tổng hợp. Một người khác sống sót trong một tai nạn tương tự nhưng lại lộ ra một sự sợ nước khủng khiếp mà anh ta không thể vượt qua được. Trong bối cảnh này, bản ngã của anh ta kém cỏi trong việc tổng hợp một kinh nghiệm tiêu cực. Sự sợ hãi tạo ra tai nạn không được hấp thụ, nó duy trì một phần tổn thương riêng lẻ trong nhân cách của anh ta.

Suy nghĩ, ghi nhớ, phê phán và tất cả những tính năng cao hơn của trí tuệ như nhận thức, phân tích, tính toán và những tính năng khác đều chịu sự thống trị của bản ngã phục vụ cho nhân cách về mặt tăng trưởng, phát triển và tồn tại.

Sự thích nghi là mấu chốt cho sự tăng trưởng

Những chức năng của bản ngã được hướng tới sự thích nghi với môi trường mà nếu không có thì sự sống còn và phát triển không thể có được. Sự thích nghi bao gồm sự thay đổi - sự thay đổi của bản thân hoặc sự thay đổi của môi trường. Thí dụ: một người di dân đến một quốc gia mới phải thay đổi lối sống của mình để được hòa nhập vào nơi ở mới và dân cư nơi đó. Đó là nhờ qua sự thay đổi của bản thân mà có được sự thích nghi, bởi vì ông (bà) ta không thể thay đổi lối sống của cư dân nơi ông là người mới di dân đến. Xem xét tình huống của một người kén ăn khi anh ta đi đến một nơi mà những thực phẩm anh ta thích lại không có sẵn. Nếu anh ta từ chối không ăn những món có sẵn thì anh ta phải nhịn đói. Nhiều thí dụ có thể kể ra về những cá nhân gặp khủng hoảng không có khả năng thay đổi đã tự gây thiệt hại cho mình. Trong thí dụ đưa ra trước đây về đứa trẻ có thể hợp nhất được kinh nghiệm hay không khi rớt xuống sông, thì sự thích nghi là hiển nhiên. Trong khi đó, ở thí dụ ngược lại, nỗi sợ nước của người đàn ông cứ ở mãi trong ông ta suốt đời cho thấy một vùng không thích nghi. Sự thích nghi nhờ thay đổi hoàn cảnh (môi trường) là một khả năng khác và tiến trình được bắt đầu những người nguyên thủy làm nên những mái nhà thô sơ để tự bảo vệ họ khỏi thiên tai và bắt đầu trồng lương thực, sử dụng lửa để nấu ăn và làm những việc tương tự như thế vì hoàn cảnh của họ và làm cho cuộc sống dễ chịu hơn.

• Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách

Một nhân cách phát triển đúng đắn có một sự hoạt động cân bằng của 3 hệ thống: - bản năng, bản ngã và siêu ngã. Một nhân cách thực hiện chức năng đầy đủ có nghĩa là đáp ứng đầy đủ các nhu cầu và thích nghi với hoàn cảnh. Tuy nhiên, có những trở ngại đối với việc thực hiện đầy đủ chức năng của nhân cách. Đối với trẻ, cha mẹ của nó là những người đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nó. Có những bậc cha mẹ không yêu thương con họ. Họ từ bỏ con cái họ và cũng chối từ vai trò là người đáp ứng nhu cầu của trẻ. Sự bất lực của cha mẹ trong việc cung ứng cho nhu cầu của trẻ vì thiếu tài nguyên vật chất, thiếu kiến thức hoặc vì những lý do khác, và sự vắng mặt của cha mẹ hoặc người thay thế cha mẹ là những yếu tố làm suy giảm sự phát triển nhân cách.

Xã hội hóa là quyết định

Hầu hết những chức năng phát triển của bản ngã phát triển thông qua tiến trình xã hội hóa tại gia đình. Cha mẹ có những hiểu biết về nhu cầu của con cái và sự phát triển của chúng có thể nuôi nấng và dạy dỗ con cái theo một phương thức mà phương thức ấy tăng cường sự hoạt động của các chức năng bản ngã. Mỗi một giai đoạn của tiến trình trưởng thành của trẻ có chương trình riêng của nó về các khả năng phát triển. Có những hoạt động trẻ có thể tự làm được, có những cái trẻ có thể làm với sự trợ giúp và có những hoạt động vượt quá khả năng phù hợp với lứa tuổi của chúng. Có những điều mà trẻ cần và phải có và nhiều điều trẻ không cần đến, việc trẻ có được những điều ấy có khi lại gây hậu quả không tốt. Các sắp xếp này phải hoạt động trong một khuôn khổ tự do và những hạn chế hợp pháp . Làm thay thế cho trẻ những việc chúng có thể tự làm được, cho chúng những vật chất mà chúng không cần đến, mặc dù chúng mong muốn hoặc yêu cầu , và cho chúng để làm vừa lòng với bất cứ giá nào, là những biểu hiệu của sự nuông chiều. Sự nuông chiều cản trở sự phát triển của các chức năng bản ngã. Khi trẻ con có được mọi thứ êm xuôi, như có một cuộc sống thoải mái mà không cần phải biểu lộ sức mạnh về thể chất, trí tuệ và tình cảm thì có rất ít cơ hội cho chức năng bản ngã hoạt động như kiềm chế sự bốc đồng, chịu đựng sự thất vọng, trì hoãn sự hài lòng, hướng về hiện thực. Hậu quả là bắt đầu thực hiện sai chức năng của nhân cách.

Vì vậy, một môi trường biểu hiện bởi tình thương yêu, hiểu biết, đáp ứng các nhu cầu, giám sát và hướng dẫn là cần thiết cho sự phát triển nhân cách của đứa trẻ.

Siêu ngã mạnh mẽ đưa đến sự phát triển

Nội dung của siêu ngã thay đổi tùy cá nhân, tùy thuộc vào những giá trị của xã hội và những tập tục nuôi con của cha mẹ. Một người có siêu ngã mạnh mẽ có nghĩa người ấy được chỉ dẫn bởi từng nguyên tắc và tiêu chuẩn của hành vi. Một siêu ngã mạnh tạo ra những suy nghĩ có tội nơi cá nhân khi hành vi không xảy ra đồng thời với mệnh lệnh của siêu ngã. Nếu chính cha mẹ có được siêu ngã phát triển tốt, điều đó tự bản thân nó, là một điều kiện thuận lợi cho sự hình thành một siêu ngã mạnh mẽ nơi con cái. Ngược lại, khi cha mẹ có một siêu ngã khiếm khuyết thì con cái bất lợi. Trong gia đình, nơi mà cha mẹ nắm giữ các quy tắc và điều luật nghiêm khắc về hành vi nhưng cố khắc sâu những giá trị của họ vào trẻ thông qua đe dọa và trừng phạt, kết quả là trẻ chấp nhận những bài giáo huấn của cha mẹ với một cách thức hời hợt; chối từ chúng hoặc phát triển một siêu ngã rất vững chắc và nặng nề. Trong một sự kết hợp lành mạnh giữa bản ngã, siêu ngã, những cảm giác có tội sinh ra từ siêu ngã được bản ngã xử lý có hiệu quả, nhờ thế những chức năng khác của bản ngã không bị ảnh hưởng bởi những cảm giác tội lỗi ấy.

Sự cân bằng giữa siêu ngã - bản ngã

Khi siêu ngã nghiêm khắc và nhằm để trừng phạt thì bộ đôi siêu ngã - bản ngã trở nên khập khiểng, tạo ra những tình huống trong đó những cảm giác tội lỗi áp đảo bản ngã, vì thế ảnh hưởng đến toàn bộ nhân cách . Có những trường hợp cá nhân có xu hướng tự tử do những cảm giác tội lỗi của riêng họ. Không nghi ngờ gì nữa, đó là một tình huống cao độ. Tuy nhiên, nó minh chứng sự bất lực toàn bộ của bản ngã để thích ứng với hoàn cảnh chống lại sự tấn công của những cảm nghĩ tội lỗi nơi mỗi cá nhân trong mỗi tình huống riêng.
Từ thảo luận trước đây, người ta có thể phỏng đoán rằng từng thái độ và tập tục về phía cha mẹ đã ngăn trở tiến trình phát triển nhân cách bình thường nơi con trẻ. Chúng được tổng kết ngắn gọn và liệt kê ra như sau :

• Những yếu tố ngăn cản sự phát triển nhân cách

Thiếu tình thương với trẻ

Thiếu tình thương yêu dẫn đến sự chối bỏ trẻ con, điều đó có nghĩa là nhu cầu của trẻ bị sao nhãng. Lịch trình những khả năng phát triển, như đã lưu ý trước đây, bị các bậc cha mẹ bỏ qua, thất bại của họ chủ yếu vì quên thực hiện những việc cần thiết trong việc làm cha làm mẹ. Đi đôi với việc bỏ quên thực hiện những hành động thích hợp, là hành động không thích hợp dưới hình thức ngược đãi con cái về mặt thể chất và tâm lý xã hội.

Những tập quán nuôi dạy trẻ nghiêm khắc

Trong một số gia đình, vấn đề không phải là thiếu thốn tình thương, nhưng tình thương bị lu mờ bởi cha mẹ có khuynh hướng nghiêm khắc và trừng phạt đối với trẻ con. Kết quả là trẻ con bắt đầu sợ cha mẹ chúng nhiều hơn là yêu thương họ. Một quan hệ đặt quan hệ vào sự sợ sệt là có hại cho sự phát triển.

Thái độ nuông chiều

Trái với các bậc cha mẹ chối bỏ con cái thì thất bại của các bậc cha mẹ nuông chiều con cái đó là thất bại trong giao việc cho con hoặc làm thái quá cho con, có nghĩa là vượt quá những việc làm của cha mẹ đến mức không thích hợp cho sự phát triển của con cái. Họ không thể áp dụng theo ý mình các hạn chế hoặc kiểm tra hành vi của trẻ.

Vai trò làm kiểu mẫu không thích hợp hay khiếm khuyết

Học là một cơ chế phát triển quan trọng và một trong những hình thức sớm sủa của học tập là thông qua sự đồng hóa. Nhờ đồng hóa với cha mẹ chúng, trẻ con học được những hành vi thích hợp và như thế là cha mẹ trở thành kiểu mẫu cho trẻ con học tập. Những bậc cha mẹ thực hiện chức năng bản ngã và siêu ngã không tương xứng hoặc khiếm khuyết là những kiểu mẫu yếu kém cho trẻ.

Những mâu thuẫn trong tập quán nuôi dạy con

Việc làm cha làm mẹ đúng đắn có nghĩa là có một kiểu nuôi dưỡng con thích hợp. Một số bậc cha mẹ không kiên định : có khi họ rất kiên quyết và nghiêm khắc nhưng lúc khác lại rất hiền hậu bao dung. Vấn đề nằm ở chỗ vận dụng các kiểu hành vi một cách khác nhau ở vào các thời điểm khác nhau, điều nầy có thể nhầm lẫn đối với trẻ. Sự mâu thuẫn cùng xảy ra giữa thái độ của người cha và người mẹ. Những tình huống khi mà người cha hoặc người mẹ quá nghiêm khắc và người kia lại quá hiền hậu là không có lợi cho sự phát triển bởi vì qua thời gian trẻ học cách lợi dụng được các mâu thuẫn và lôi kéo được hành vi của cha mẹ.

• Khái niệm về vô thức

Nói chung, từ ngữ “vô thức” được dùng như một tĩnh từ, có nghĩa là “không ý thức”, và sự không ý thức là tình trạng mà một người không biết gì về mình và hoàn cảnh xung quanh và không phân biệt được cảm giác. Khi dùng như một danh từ, “vô thức” nói đến thuật ngữ phân tâm học chỉ phần vô thức của tâm hồn nơi ẩn chứa những cảm nghĩ bị quên lãng, những ý tưởng bị chôn chặt trong vô thức không thể gợi lại và nhớ lại do ý muốn của cá nhân, nhưng chúng có thể ảnh hưởng đến hành vi hiện hành.

Ba cấp độ của tâm hồn

Theo lý thuyết phân tâm học, tâm hồn của con người hoạt động theo ba cấp độ : ý thức, tiền ý thức và vô thức. Trí tuệ như là một khái niệm được chứa trong một khái niệm rộng lớn hơn về nhân cách bao gồm hành vi tinh thần cũng như hành vi vận động và nói năng. Có một sự nối kết giữ cấp độ ý thức - vô thức của tâm hồn và ba bộ phận cấu trúc của nhân cách. Bản năng, bản ngã và siêu ngã hoạt động trong cả ý thức lẫn vô thức. Cái chúng ta gọi là lương tâm là bộ phận ý thức của siêu ngã. Hầu hết các chức năng bản ngã hoạt động trong vùng ý thức. Khi cấp độ có ý thức của trí tuệ hoạt động thì có tiến trình suy nghĩ xảy ra, bao gồm việc chọn lọc các tác nhân kích thích khác nhau đi vào tâm hồn thông qua các giác quan cùng với sự ý thức hoàn cảnh xung quanh. Vùng tiền ý thức là kho chứa ký ức. Nó chứa đựng những ý tưởng, cảm nghĩ và hình ảnh của những biến cố đã qua mà chúng có thể được đưa đến vùng ý thức bởi nỗ lực của ý chí. Ý tưởng, cảm nghĩ và hình ảnh được chứa đựng trong vô thức là những thứ đã một lần ở trong ý thức nhưng bây giờ bị quên lãng và không thể chuyển hóa thành ý thức bằng nỗ lực của ý chí mà có thể chuyển hóa bằng những phương thức phân tâm học. Khi một người đang ngủ, ý thức không hoạt động trong khi vô thức lại hoạt động.

Những giấc mơ là biểu lộ một chút và từng mẩu nội dung của vô thức. Tương tự, người đi đứng hay nói năng trong khi ngủ là họ làm việc đó dưới ảnh hưởng của vô thức.

Có hai năng lực đời sống trong con người : năng lực tình dục hay dục tính (libido) và tư tưởng thù địch (gây hấn). Đây là những sức mạnh bản năng mà mọi cơ thể sống đều có. Cái thứ nhất là để bảo tồn nòi giống và cái thứ hai là để gìn giữ cái tôi. Có quan hệ với nhau về mặt sinh học, những sức mạnh nầy bắt nguồn từ bản năng mà ở trong nhân cách con người chúng được chế ngự và do bản ngã hướng dẫn dưới ảnh hưởng của siêu ngã có liên hệ đến các yêu cầu của hoàn cảnh.

• Cơ chế phòng vệ

Liên quan đến sự hoạt động của các chức năng bản ngã là những hoạt động của trí tuệ, đôi khi hiện tượng lo âu là cảm nghĩ chủ quan của sự bực bội, lo lắng. Đầu chương nầy đã có nói đến sự căng thẳng, đó là một hình thức gay gắt, một tình huống đặc thù của lo âu.

Đối phó với sự lo âu

Nhưng sự lo âu xảy ra rất thường dưới một hình thức lơ mơ, không rõ ràng. Theo quan điểm phân tâm học, có ba kiểu sức ép lên bản ngã dẫn đến sự lo âu - đó là sức ép từ bản năng, từ siêu ngã và từ những yêu cầu của hoàn cảnh. Con người sử dụng nhiều hành vi khác nhau để có thể đối phó với sự lo âu. Đây là những chiến lược đối phó đơn giản được sử dụng trong cuộc sống hằng ngày ở vùng ý thức. Khác với cơ chế phòng vệ được sử dụng hầu như ở vùng vô thức. Một vài hành vi thường thấy có thể xảy ra để đáp ứng với sự âu lo, đó là :

 Thề thốt, nguyền rủa, dùng lời lẽ lăng mạ, khóc, cười v.v...
 An, uống, hút thuốc. Một số người lúc đầu dùng thuốc lá, rượu hay ma túy để trấn áp sự lo âu sau một thời gian đã trở nên nghiện với chất nầy.
 Cho phép mình tận hưởng bất kỳ hoạt động thể chất mạnh mẽ nào.
 Ngủ.
 Nói chuyện với người khác.
 Suy nghĩ thông qua sự lo âu tạo ra tình huống, vạch kế hoạch hành động và hành động.

Có những lúc khi sự lo âu do hoàn cảnh bên ngoài hay do các lực bên trong gây ra thì sự lo âu đó không thể chế ngự được đến nỗi bản ngã kiềm chế nó hay nói cách khác, đẩy nó tới vô thức.

Sự kiềm chế

Sụ kiềm chế là một cơ chế phòng vệ của bản ngã. Những lo sợ không bình thường của một số người về những việc tầm thường đã từng xảy ra trong quá khứ mà những cái đó bị kiềm chế cùng với sự lo âu nẩy sinh ở vào thời điểm đó. Sự hay quên lãng là sự biến mất của ý nghĩ từ ý thức là không tuyệt đối. Thường thường, ký ức về một biến cố hay ít nhất một vài yếu tố của biến cố là có khả năng tái hiện trong ý thức. Chúng ta giả sử rằng một cuốn tiểu thuyết ta đã đọc từ lâu rồi nay thì ta quên mất. Nếu câu chuyện được kể lại thì hầu như chúng ta có thể nhớ lại một vài điểm, điều đó chứng tỏ rằng chứng ta ý thức sự mau quên của ta về các phần khác của cuốn sách. Trong sự kiềm chế, không có sự ý thức về sự mau quên. Nó giống vật chất bị dồn nén biến mất mà không để lại dấu vết hay chứng cớ mà nhờ đó nó có thể được đưa đến ý thức.

Những hình thức của cơ chế phòng vệ

Sự phủ nhận, sự luận lý, sự đổi chỗ, sự đồng hóa với kẻ gây hấn, sự đền bù, sự tưởng tượng và phóng chiếu là một số cơ chế phòng vệ khác. Các cơ chế phòng vệ nầy phức tạp hơn những cơ chế đã được mô tả trước đây mặc dù chúng đều nhắm tới sự thích nghi.

Sự phủ nhận

Sự phủ nhận là sự ngăn cách, tách rời với hiện thực, trong những bối cảnh hiện thực gây ra sự lo âu quá mức. Giả sử một bệnh nhân nam không biết đến sự nghiêm trọng của tình trạng bệnh tật, ông ta đang khổ sở vì căn bệnh không thể chữa khỏi, một trong những phản ứng có thể có là ông ấy không thừa nhận sự chẩn đoán. Ông ta từ chối không tin vào chẩn đoán, đó là sự phủ nhận và có thể có một số yếu tố đằng sau sự phủ nhận nầy. Đó là những yếu tố gây ra sự lo âu không kiềm chế được, dẫn đến một động tác phòng vệ của tâm hồn. Có nhiều trường hợp liên quan đến trẻ em bị chậm phát triển tâm thần mà cha mẹ của chúng phủ nhận sự thật ấy mặc dù có những biểu hiện chứng tỏ có căn bệnh ấy. Có thể là những bậc cha mẹ nầy có ý tưởng về tình trạng chậm phát triển tâm thần của con họ, những ý tưởng nầy gây ra sự lo âu không kiềm chế được cho bản ngã, dẫn đến việc phủ nhận nó như là một cách thức phòng vệ.

Sự luận lý, viện lý

Sự viện lý nói đến việc tìm một nguyên do hay nhiều lý do biện minh hay bào chữa cho việc làm không được xã hội chấp nhận. Bằng cách viện lý, cá nhân quy cho hànhvi không thể chấp nhận của mình chỉ là những lý do được xã hội tán thành trong khi thực tế cũng có những lý do như thế. Giả sử một người làm ra đồng tiền bằng những con đường mờ ám chi một phần số tiền ấy cho mục đích từ thiện. Nếu ông ta cho rằng ông ta dùng cách thức xấu xa để làm ra tiền cốt để giúp người nghèo thì đó là ông ta hợp lý hóa hành vi của mình.

Sự đổi chỗ - Giận cá chém thớt

Khi đối tượng hay bản chất của sức mạnh bản năng bị thay đổi thì hoạt động trí tuệ có liên quan là sự đổi chỗ hay giận cá chém thớt. Thí dụ, người ta có thể thấy được tình huống của một cậu bé sau khi bị mẹ đánh phản ứng tức thời bằng cách đá con chó cưng của mình một cái. Cậu ta đã trải qua những cảm nghĩ tức giận đối với mẹ mình vì bà đã đánh cậu. Đánh lại mẹ thì không được xã hội chấp nhận cũng như không có lợi bởi vì nó yếu hơn và bé hơn mẹ nó. Bằng cách đá con chó là nó đã trút hết tức giận lên mẹ nó. Nó đã chuyển sự gây hấn sang con chó thay vì lúc đầu nhắm vào bà mẹ.

Sự thăng hoa

Khi sự đổi chỗ dẫn đến một thói quen hay một hoạt động được xã hội coi trọng thì nó được gọi là sự thăng hoa (lý tưởng hóa). Một thanh niên cống hiến sức mình để phục vụ cho người nghèo, phấn đấu không ngừng để xóa bỏ sự bất công xã hội mà người nghèo phải gánh chịu, có thể lúc đầu anh ta chịu đựng sự tức giận của những người thân nhu cha mẹ anh ta. Qua thời gian thì bản năng gây hấn của anh ta đã chuyển hóa thành sức mạnh đấu tranh hướng vào từng lĩnh vực của xã hội và cuộc đấu tranh có ý nghĩa mang lại sự thay đổi cho người nghèo. Ở đây chúng ta thấy sự gây hấn đã được thăng hoa hay sự gây hấn ấy nhắm đến những mục đích được xã hội coi trọng. Cũng như vậy, một phụ nữ độc thân trở thành một bà mẹ giỏi giang và hiểu biết trong một cơ sở nuôi trẻ minh họa cho sự thăng hoa năng lực giới tính liên quan đến vai trò của chị ta là một bà mẹ thay thế cho các cháu mồ côi.

Trong khi đối phó với một kẻ gây hấn, bản ngã chịu đựng sự lo âu. Đồng hóa với kẻ gây hấn là một cách xử lý có tính phòng vệ đối với sự lo âu. Những băng nhóm đường phố phát triển nhanh ở một số khu phố đô thị và chúng thường lo sợ và cũng bị thanh niên trong khu vực tránh né. Những thành viên băng nhóm không ngần ngại sử dụng những thủ đoạn bắt nạt đối với những thanh niên dễ bị thương tổn. Nếu việc nầy xảy ra qua một thời gian dài thì có thể gây nên sự lo âu liên tục cho nạn nhân. Có khả năng là nạn nhân có thể dần dà gia nhập băng nhóm. Vì thế, bằng cách tự mình trở thành một kẻ bắt nạt anh ta mới tránh được sự căng thẳng nội tâm. Nói cách khác, bản ngã của anh ta kìm giữ sự lo âu và giúp thực hiện được chức năng của nhân cách, dù với một cách thức không được xã hội chấp nhận. Những nạn nhân ấy cảm thấy an toàn với sự hỗ trợ của gia đình họ và của những người khác sẽ không thấy sự lo âu đe dọa nữa.

Đồng hóa với kẻ gây hấn

Đồng hóa là một cơ chế của sự phát triển. Nhưng khi đối tượng của sự đồng hóa là một kẻ gây hấn mà hành vi của hắn được mô phỏng để tồn tại về mặt tâm lý-xã hội thì sự đồng hóa bằng hành động là một cơ chế tự vệ. Có những câu chuyện về các tù nhân ở trại tập trung của Đức quốc xã đứng về phe cai ngục chống lại bạn tù của họ - một hiện tượng nẩy sinh từ sự đồng hóa của người bị áp bức với kẻ áp bức.

Sự thoái bộ

Sự thoái bộ nói đến sự quay lại với những hành vi thiếu chín chắn là đặc điểm của những giai đoạn đầu của sự phát triển. Chẳng hạn, có thể xảy ra chuyện một đứa trẻ tám tuổi trở lại đái dầm, điều ấy có nghĩa là đứa trẻ dù đã được dạy cách đi toa-lét và nó cần có thói quen đi toa-lét thì nay chứng tỏ hành vi không đúng đắn khi đái dầm trên giường. Lấy một thí dụ khác, một cậu bé sáu tuổi đã nói chuyện được rõ ràng nay bắt đầu nói bá xàm bá láp như đứa trẻ lên hai sau khi bà ngoại mà nó yêu mến qua đời.

Đền bù

Đền bù là phương sách của bản ngã chống lại sức ép của những cảm nghĩ có tội triền miên. Một bà mẹ cảm thấy có lỗi vì nổi giận khi đứa con chọc tức bà, bà ta có thể cưng chiều đứa con bằng cách đền bù. Đền bù sẵn sàng phục vụ cho bản ngã, đền bù cũng để chống lại những cảm nghĩ thiếu thốn, thiếu hụt. Có thể đưa ra nhiều ví dụ về những người bù đắp sự bất lực hay khuyết tật của mình bằng cách đạt được sự xuất sắc trong công việc hay nghề nghiệp đặc thù nào đó.

Mơ mộng

Mơ mộng là ấp ủ những ý tưởng kỳ quặc được sử dụng như một lối thoát để trốn tránh những hoàn cảnh cần tránh sự lo âu. Một đứa trẻ học kém và không hiểu những điều giáo viên giảng dạy sẽ không thấy việc học hành và không khí lớp học là thú vị. Nó trốn vào tưởng tượng, ở đó nó tìm được sự lạc thú bằng cách mơ mộng.

Phóng chiếu

Dưới sự giám sát nghiêm khắc của siêu ngã, việc xử lý những cảm nghĩ khó chịu và cá tính của một người có thể gây khó khăn cho bản ngã. Vì vậy, sự nhận thức về những ý tưởng như thế được tránh né bằng cách quy kết (phóng chiếu) những cảm nghĩ và cảm nghĩ ấy cho người khác. Một cá nhân được nuôi dạy trong luật lệ nghiêm khắc về hành vi tính dục dựa vào những ý niệm sai lầm về bản năng sinh dục của con người thì người ấy sẽ khó khăn trong việc chấp nhận bản năng sinh dục của riêng mình. Khi người ấy trải qua những cảm giác tình dục, người ấy không thể nào chấp nhận chúng, kết quả là, người ấy hướng chúng vào người đã khơi dậy trong họ những cảm giác ấy và than phiền rằng người khác đang tìm cách quyến rũ mình, làm như vậy người ấy đã che đậy những cảm nghĩ riêng của mình. Tiến trình nầy được gọi là phóng chiếu, một trong những cơ chế phòng vệ. Thật hữu ích khi nhớ rằng một tiến trình vô thức hoạt động ở đây đưa đến cả sự phủ nhận lẫn sự kiềm chế.

Minh họa

Phủ nhận và kiềm chế hiện diện ở hầu hết tất cả các cơ chế phòng vệ khác. Sự thực hiện chức năng của cơ chế phòng vệ hầu như là không ý thức. Nếu chúng được sử dụng một cách có ý thức như là những công cụ bảo vệ, chúng đơn giản chỉ là những phương sách đối phó được trí tuệ sử dụng như đã minh họa trước đây. Các cơ chế phòng vệ như là những phương cách bảo vệ của bản ngã khỏe mạnh và đầy đủ chức năng. Tuy nhiên vượt ra ngoài những giới hạn thì chúng trở nên có hại, gây khiếm khuyết cho việc thực hiện chức năng của nhân cách. Một đứa trẻ bị thầy giáo quở phạt vì không làm bài tập ở nhà sẽ buông trôi vào tưởng tượng để hưởng được sự dễ chịu. Việc đó giúp nó giữ được sự tự trọng trước tình thế đang xảy ra. Nếu đứa trẻ mơ mộng để thoát khỏi những tình cảnh khó khăn thay vì giải quyết khó khăn thì việc đó sẽ tác động xấu đến việc thực hiện chức năng xã hội của đứa trẻ.

Ví dụ thứ hai

Một người đàn ông ở tuổi 60 khó chấp nhận sự thật là tuổi tác ngày càng cao và ông ta sẽ không thể thực hiện được nhiều hoạt động thể chất và tinh thần căng thẳng mà hồi còn trẻ ông ta vẫn thường làm. Bây giờ thì ông ta phủ nhận sự thật về tuổi già của mình. Một sự phủ nhận vừa phải giúp cho ông ta có thể duy trì được sự linh lợi và cuộc sống hữu ích. Nếu ông ta lo sợ quá đáng về tuổi già thì ông ta sẽ dùng sự phủ nhận ở mức độ cao và nỗ lực làm những việc nằm ngoài khả năng trí tuệ và thể chất của ông ta. Kết quả sau cùng sẽ bị bệnh tật. Sự phủ nhận trong những hoàn cảnh như vậy dẫn đến việc thực thi sức mạnh ý chí, mà ý chí bị căng đến cực điểm tương phản với những điều kiện thực tế sẽ dẫn đến những kết quả tai hại.

• Khái niệm về vai trò xã hội

Khái niệm về vai trò thứ hai

Trong những phần trước một số lý thuyết tâm lý học thích ứng với công tác xã hội đã được trình bày. Một số lý thuyết xã hội học cũng được xem xét. Ở đây, các lý thuyết có liên quan đến khái niệm vai trò xã hội hình thành nên một lĩnh vực kiến thức quan trọng. Vai trò xã hội của một người là kiểu mẫu hay cách cư xử có liên hệ đến địa vị trong nhóm xã hội mà người ấy tùy thuộc. Như thế, có các vai trò người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, con trai, con gái, anh em trai, chị em gái trong gia đình. Ở trường thì có các vai trò người thầy, sinh viên, hiệu trưởng... Một vai trò nào đó luôn luôn có quan hệ đến một người khác hay những người khác và mối quan hệ tạo ra những cặp vai trò. Như thế, cha và con là những cặp vai trò gắn liền với mối quan hệ cha-con. Mỗi vai trò bao hàm chức năng và những quyền nhất định, nói cách khác người mang vai trò có những nghĩa vụ và quyền hạn nhất định. Về những chức năng của người mang vai trò, có những mong đợi về các chức năng quy định bởi truyền thống văn hóa và phong tục. Những lĩnh vực cụ thể qua đó có thể thấy được vai trò là những nhiệm vụ mà người đóng vai trò đó thực hiện. Thí dụ, một phụ nữ trong vai trò người mẹ có nhiệm vụ nuôi dưỡng con cái cùng với các công việc khác trong nhà liên quan đến việc quản lý gia đình . Theo truyền thống, vai trò kiếm tiền được giao cho người đàn ông, người có nhiệm vụ kiếm sống cho anh ta và gia đình.

Ba lĩnh vực của vai trò xã hội

Những vai trò xã hội có thể được phân tích chủ yếu theo ba lĩnh vực : (1) hành động (làm nhiệm vụ) (2) những mệnh lệnh và những kỳ vọng điều chỉnh những hành động và mối quan hệ. Những mệnh lệnh quy định phải hành động như thế nào và tại sao phải hành động (3) lượng giá hay đánh giá chủ yếu vào việc thi hành nhiệm vụ.

Hầu hết những vấn đề thực hiện chức năng xã hội liên quan đến sự thực hiện vai trò và những vai trò chủ yếu trong bối cảnh ở đây là vai trò vợ chồng, cha mẹ và người công nhân hay người kiếm tiền. Có liên quan đến những vai trò chủ yếu nầy là vai trò con cái, sinh viên, học viên và những người khác. Sự thực hiện một hay nhiều vai trò chủ yếu của một cá nhân có thể thiếu sót, không thích hợp hay bị hỏng bới các yếu tố khác được liệt kê dưới đây.

• Những nguyên nhân khiến cho việc thực hiện vai trò không đầy đủ

Không được đáp ứng đầy đủ nhu cầu

Một người suy nhược bệnh hoạn vì thiếu thốn và nghèo khó gặp khó khăn trong việc thực hiện vai trò của anh ta là bố của một bầy trẻ. Cá nhân bị mất mát tình thương lúc còn thơ ấu sẽ có những trở ngại trong việc bày tỏ tình yêu thương với những người khác.

Những kỳ vọng về vai trò khác nhau

Những sự khác biệt xảy ra giữa những kỳ vọng rằng người nầy có vai trò nầy và kỳ vọng rằng người khác có cùng vai trò như vậy. Thí dụ : một phụ nữ có thể không biết đến những kỳ vọng của người chồng về vai trò của bà ta là người vợ của ông ấy hoặc có thể bà ta không chấp nhận những kỳ vọng của người chồng. Khi những nhận thức về vai trò của người nầy khác với những mong đợi mà người đóng chung vai trò hay những người khác có về vai trò ấy thì sự thực hiện vai trò của người thứ nhất sẽ không thỏa mãn đối với người thứ hai.

Bệnh tật về thể chất và tâm thần

Bệnh tật là những trở ngại nghiêm trọng cho việc thực hiện vai trò. Những người ốm đau không thể thực hiện được những nhiệm vụ vai trò của họ trong thời kỳ đau ốm được.

Thiếu thốn tài nguyên vật chất và phi vật chất

Tài nguyên vật chất như tiền bạc và của cải, tài nguyên phi vật chất như thông tin và kiến thức có thể không được đầy đủ đối với một số người để họ thực hiện có hiệu quả các vai trò xã hội của họ.

Khuyết tật về tâm thần và thể chất

Những người bệnh tật về tâm thần và thể chất không thể thực hiện các vai trò xã hội của họ một cách đầy đủ. Tương tự, những khiếm khuyết về tâm thần và thể chất cũng làm hỏng sự thực hiện vai trò của cá nhân.

Thiếu chuẩn bị cho việc thực hiện vai trò

Những người không có tay nghề khéo léo thì hầu như bị thất nghiệp hoặc họ sống được với đồng lương thấp kém nhất. Để có được thành công trong việc thực hiện vai trò người kiếm tiền thì việc học nghề là cần thiết. Như thế chúng ta có những hình thức dạy nghề khác nhau từ huấn luyện tại chức vài ngày đến dạy nghề cần nhiều năm học. Tương tự, đối với vai trò người vợ người chồng và cha mẹ cũng vậy, sự chuẩn bị là cần thiết, không phải vì tính chất đào tạo công việc mà vì một hình thức khác,đó là sự hiểu biết về tình cảm và sự sẵn sàng, sự thông hiểu và sự ý thức.

Sự kiện xung đột giữa hai vai trò

Có thể xảy ra việc tính chất của các nhiệm vụ liên quan đến một vai trò cản trở sự thực thi nhiệm vụ của một vai trò khác. Nếu công việc của một người buộc anh ta xa nhà trong một thời gian dài thì sự vắng mặt của anh ta sẽ ảnh hưởng đến một số khía cạnh trong vai trò gia đình của anh ta. Lấy một bối cảnh khác làm ví dụ. Giả sử một giáo viên có đứa con trai đang học lớp mà anh ta đang dạy. Nếu anh ta không phân biệt rạch ròi vai trò giáo viên và vai trò ông bố trong mối quan hệ với đứa con thì kết quả sẽ là sự khiếm khuyết trong việc thực hiện vai trò. Có một khả năng là anh ta sẽ ưu ái cho con mình. Khả năng khác nữa là anh ta nghiêm khắc với con mình hơn những học sinh khác để khỏi mang tiếng là ưu ái con mình. Khi một hoặc khả năng khác trong những khả năng nầy trở thành hiện thực thì việc thực hiện vai trò thầy giáo của anh ta bị ảnh hưởng. Hơn thế nữa, nếu ở nhà anh ta không thể chuyển đổi thành vai trò người cha với con mình thì điều đó cũng sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò người cha.

Bảy yếu tố trình bày ở trên không nhất thiết loại trừ lẫn nhau.

Xã hội hóa

Khái niệm xã hội hóa mượn của ngành xã hội học và là một thuật ngữ rất thích hợp để am hiểu hành vi con người trong công tác xã hội cá nhân. Xã hội hóa là học được những vai trò xã hội để dẫn đến việc thực hiện vai trò xã hội của cá nhân. Gia đình là đơn vị đầu tiên nơi đó việc xã hội hóa của trẻ em khởi sự và diễn ra suốt thời kỳ thơ ấu và từ đây thì vai trò của cha mẹ quan trọng trong việc xã hội hoá. Những khía cạnh xã hội hóa thành công được bàn trong những thuật ngữ xã hội học tương đương với những yếu tố đã bàn trước đây liên hệ đến sự phát triển nhân cách.

Những kiến tạo xã hội học khác cũng thích hợp

Những kiến tạo xã hội học về văn hóa, những thiết chế xã hội, sự kiểm soát xã hội v.v.. cũng thích hợp cho ngành công tác xã hội. Xã hội học là một ngành học nghiên cứu lý thuyết về các nhóm xã hội trong sự tương tác trong các nhóm xã hội. Tâm lý học cũng nghiên cứu những tương tác nầy để nhận thức những tác động mà các tương tác nầy tác động lên tính cách của cá nhân. Có thể thấy rằng xã hội học và tâm lý học là những bộ phận không tách rời nhau của kho tàng kiến thức. Chúng có liên quan với nhau ở nhiều điểm và đây là một trong những điều quan trọng đối với nhân viên xã hội trong việc tìm hiểu con người nhằm mục đích tạo sự thay đổi trong hành vi con người.

Những kiến tạo tâm lý học khác

Chỉ có lý thuyết phân tâm học về nhân cách thuộc ngành tâm lý học là đã được bàn đến phần trước của chương nầy. Có những hệ thống lý thuyết khác do các nhà khoa học về hành vi đưa ra chứng tỏ hữu ích trong công tác xã hội cá nhân. Đối với chúng ta hình như những hệ thống lý thuyết nầy đưa ra những công cụ và kỹ thuật thay đổi những hành vi không thích hợp mà không cần thêm vào kiến thức về tính cách con người.

VI. NHỮNG CÔNG CỤ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN

Những công cụ được sử dụng trong công tác xã hội cá nhân là : lắng nghe, quan sát, vấn đàm, mối quan hệ và vãng gia. Từ "công cụ" tạo ra ngay hình ảnh tinh thần về những vật cụ thể, không thể dễ dàng giải thích khi nó được sử dụng như một thực thể vô hình, phi vật chất .

Định nghĩa miêu tả về những công cụ công tác xã hội cá nhân

Hai ý nghĩa thông thường của từ "công cụ" có thể được phỏng theo để giải thích thuật ngữ "những công cụ công tác xã hội cá nhân" .

(1) Một phương tiện tiếp xúc với cái gì hay một phương tiện tiếp cận với cái gì đó.

Những công cụ công tác xã hội cá nhân là những phương tiện tiếp xúc với thân chủ. Chúng cũng là phương tiện tiếp cận thông tin về thân chủ, gia đình anh ta và vấn đề của anh ta. Ý nghĩa này có thể áp dụng cho toàn bộ năm công cụ của công tác xã hội cá nhân . Quan sát và lắng nghe có thể được xem như những công cụ của công cụ khi chúng là các bộ phận cấu thành của vấn đàm, mối quan hệ và vãng gia.

(2) Một phương tiện truyền tải năng lượng hay sức mạnh cho cái gì

Ở đây từ "công cụ" nói đến một kênh luồng vật trung gian hay nơi gặp gỡ cho sự truyền tải năng lực hay sức mạnh. Ý nghĩa này có thể áp dụng chỉ với ba công cụ công tác xã hội cá nhân là vấn đàm, mối quan hệ và vãng gia, những cách phục vụ như những kênh truyền thông tin, kiến thức và sự trợ giúp. Chúng là những kênh luồng qua đó những kỹ thuật công tác xã hội cá nhân là những phương pháp giúp đỡ có hệ thống . Một trong các kỹ thuật, thí dụ, chấp nhận cảm nghĩ, có thể đưa ra để chỉ ra sự khác biệt giữa công cụ công tác xã hội cá nhân và kỹ thuật công tác xã hội cá nhân . Chấp nhận cảm nghĩ của thân chủ chỉ có thể thể hiện trong những cuộc tiếp xúc của nhân viên xã hội với thân chủ, nghĩa là, trong phạm vi cuộc vấn đàm, mối quan hệ hay cuộc vãng gia. Lắng nghe, quan sát, vấn đàm, mối quan hệ và vãng gia là tất cả những can dự của con người cũng diễn ra trong nhiều trường hợp ngoài những trường hợp công tác xã hội cá nhân. Nhưng có một điểm khác biệt : trong tình huống công tác xã hội cá nhân, những can dự, tham gia được định hướng tới một một mục tiêu đó là giúp đỡ thân chủ. Những công cụ công tác xã hội cá nhân vì thế trở thành bối cảnh cho việc áp dụng các kỹ thuật. Mặc dù công cụ công tác xã hội cá nhân không phải là một vật hữu hình, nhưng nghĩa đen của năm công cụ công tác xã hội cá nhân là sự can dự linh hoạt của nhân viên xã hội, một sự thực thi năng lực tinh thần và thể chất của nhân viên xã hội.

Công dụng của công tác xã hội cá nhân

Sự hữu ích của những công cụ công tác xã hội cá nhân ở 3 khía cạnh sau : (1) Thu thập thông tin trực tiếp về thân chủ (2) Thu thập thông tin gián tiếp về thân chủ (3) Đem sự giúp đỡ đến cho thân chủ .

Thông tin trực tiếp có được từ những điều thân chủ nói và thu thập thông tin trực tiếp là một đặc điểm của năm công cụ. Thông tin gián tiếp được thu thập qua truyền thông không lời của thân chủ và thỉnh thoảng từ những điều mà thân chủ bỏ sót không nói. Thu thập thông tin gián tiếp , như một khía cạnh, áp dụng phần lớn công cụ quan sát và trong vài bối cảnh là áp dụng công cụ lắng nghe. Khía cạnh thứ ba – đem sự giúp đỡ đến cho thân chủ - chỉ áp dụng công cụ vấn đàm, mối quan hệ và vãng gia. Như đã nói trước đây, ba công cụ này thực hiện chức năng như công cụ chuyển tải sự giúp đỡ .

1. LẮNG NGHE

Lắng nghe là một công cụ cơ bản của công tác xã hội cá nhân . Lắng nghe tích cực , chú tâm là mục đích nhắm đến. Mục đích là hiểu lời nói và cảm nghĩ của người nói càng chính xác càng tốt, việc tập trung tinh thần để lắng nghe là cần thiết. Người nghe phải chú ý đến những gì được nói ra, những gì không được nói ra và những gì được đề xuất. Lắng nghe, vì vậy, trở thành một hoạt động được thực thi một cách có ý thức đối với nhân viên xã hội. Nó còn là một khía cạnh thực hành nguyên tắc chấp nhận.

Có vài trở ngại đối với việc lắng nghe tích cực, mà am hiểu chúng là cần thiết cho những người muốn tự rèn luyện để trở thành một người lắng nghe tốt.

 Những trở ngại đối với lắng nghe

(1) Sự xao nhãng làm người nghe không còn lắng nghe tích cực nữa. Có những sự xao nhãng từ bên ngoài dưới hình thức tiếng ồn ào trong môi trường xung quanh và người khác nói chuyện. Những xao nhãng nội tâm là những ý nghĩ riêng tư của người nghe, có dính dáng hay không dính dáng với người nói hoặc chủ đề của người nói. Thỉnh thoảng, những phát biểu của người nói đưa người nghe hồi tưởng lại những kinh nghiệm tương tự, và để trí óc bay tận đâu đâu không còn nghe chăm chú nữa.

Sự xao nhãng

Hầu như chắc chắn là những thành kiến về người nói hay về những chất liệu mà anh ta nói tới xâm chiếm trung tâm chú ý trong trí óc người nghe, vì thế làm hỏng việc lắng nghe. Đây là một ví dụ, C là người được bạn bè biết đến như là người hay mượn tiền. Hôm nay, C đến gặp D vì một vấn đề tình cảm chứ không phải mượn tiền. Nhưng D nghĩ sai là C đến để vay tiền. Trong khi C nói chuyện thì D không hề lắng nghe gì cả mà định sẵn trong đầu câu trả lời từ chối lịch sự đối với yêu cầu mượn tiền. Đến khi D nhận ra rằng C không phải đến để vay tiền thì D cũng ý thức được rằng mình đã không lắng nghe vấn đề của C trình bày. Vì thế anh ta yêu cầu C nói lại câu chuyện. Rõ ràng ở đây cho thấy là những thành kiến về C là người hay mượn tiền đã ngăn cản D lắng nghe C khi C nói về những vấn đề hiện tại của mình.

(2) Sự lo âu hay lo sợ của người nghe đối với người nói là trở ngại cho việc lắng nghe tốt . Cũng vậy, khi người nghe quá lo lắng làm sao cho có sự đáp ứng thích hợp với người nói thì trí óc anh ta bị bận tâm với cách đối phó. Đây là trở ngại thường xảy ra trong cuộc gặp gỡ giữa nhân viên xã hội và thân chủ, lúc mà nhân viên xã hội lo rằng anh (chị) ta phải lấy được lòng tin của thân chủ . Một nhân viên xã hội lo lắng về việc thấu cảm với thân chủ có thể cân nhắc trong đầu những lời lẽ khác nhau và những cách tỏ lòng sự thấu cảm trong khi thân chủ đang nói. Vì thế, thay vì tập trung chú ý vào lời nói của thân chủ thì người nghe lại tập trung chú ý vào cách mà mình sẽ đáp ứng . Khi việc này xảy ra, cách đáp ứng của nhân viên xã hội không nhất thiết phù hợp với hoàn cảnh. Mặc dù những câu :"Tôi hiểu được những cảm nghĩ của ông (bà)", "Những cảm nghĩ như thế là tự nhiên", "Không có gì sai trái khi suy nghĩ như vậy" là biểu hiện của sự thấu cảm, nhưng chúng không thể được lập đi lập lại như vẹt mà không có sự lắng nghe cẩn thận những gì thân chủ nói.

Nghe có chọn lọc

(3) Nghe chọn lọc nói đến khuynh hướng chỉ nghe những gì người ta thích nghe, việc này làm cản trở lắng nghe tích cực. Trong cuộc nói chuyện bình thường, một lượng đáng kể những vấn đề được nói đến bị để ngoài tai cũng vì nghe chọn lọc. Một người có thể bỏ ngoài tai câu chuyện một cách có ý thức hay không ý thức khi những chuyện nói ra là những chuyện đau buồn hay không thú vị gì.

Có một vài hướng dẫn giúp nhân viên xã hội phát triển thói quen lắng nghe có hiệu quả.

 Những hướng dẫn cho việc lắng nghe có hiệu quả

(1) Điều quan trọng là nên mắt nhìn mắt với thân chủ trong khi nói chuyện . Mắt nhìn mắt giúp nhân viên xã hội hướng sự chú ý về thể chất và tinh thần của mình về phía thân chủ.

(2) Nhân viên xã hội phải đảm bảo rằng, dù không phải là luôn luôn có thể được, nơi tổ chức cuộc vấn đàm với thân chủ là nơi yên tĩnh , ít sự phân tán từ bên ngoài.

(3) Để chuẩn bị cho cuộc vấn đàm với thân chủ, nhân viên xã hội phải xóa bỏ những thiên kiến và thành kiến bên trong của mình về thân chủ. Sự e sợ, lo sợ về cuộc vấn đàm phải được nhận thức và hóa giải. Nếu chúng không được hóa giải ngay tức thời được thì chúng phải được dẹp bỏ sang một bên một cách có ý thức.

(4) Phải luyện đôi tai để lắng nghe bất cứ điều gì thân chủ nói. Thói quen lơ đễnh và lắng nghe chọn lọc phải được gạt bỏ.

(5) Những gì thân chủ nói hay những gì thân chủ tỏ ra, không chỉ gợi lên suy nghĩ trong đầu nhân viên xã hội. Nhưng suy nghĩ trong hoàn cảnh này không được làm chệch hướng hoặc tránh né thân chủ. Nói cách khác, nhân viên xã hội phải có khả năng suy nghĩ có tính kỷ luật, để giúp anh ta hiểu được những gì thân chủ nói, lưu ý về những gì thân chủ không nói và đặt những câu hỏi thích hợp. Có những mẫu thông tin mà nhân viên xã hội mong đợi thân chủ đặc biệt nào đó nói ra trong lúc nói chuyện. Nếu thân chủ không chú ý tới thông tin này hay ngay cả lẩn tránh nói về chúng dù nhân viên xã hội thắc mắc, thì có lẽ "những chi tiết bị bỏ quên" này là có ý nghĩa, hiễu được chúng là cần thiết để hiểu thân chủ và vấn đề của họ.

2. QUAN SÁT

Quan sát là chú ý đến những đặc điểm của người, vật hay tình huống và trong bối cảnh của công tác xã hội cá nhân, mục đích là sử dụng những dữ kiện quan sát được để hiểu thân chủ và hoàn cảnh của anh ta. Nhân viên xã hội phải có sự quan sát, nhận thức về những điều sau đây liên quan đến thân chủ :

 Vẻ tổng quát bề ngoài
 Vẻ mặt , cử chỉ, dáng điệu ...
 Những đặc điểm, đặc biệt, là những tương tác mang sắc thái tình cảm xảy ra giữa thân chủ và những người khác, kể cả những thành viên trong gia đình.

Dáng vẻ bên ngoài

Nhân viên xã hội không khó khăn gì lắm trong việc chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của con người thân chủ - áo quần anh ta mặc, mức độ sạch sẽ ... Thông thường , quần áo biểu thị cho tầng lớp kinh tế - xã hội của thân chủ, nhưng cũng có những ngoại lệ. Có những trường hợp bà con của thân chủ xuất hiện trong những bộ quần áo sờn vai với ý định che dấu tình trạng kinh tế - xã hội để phù hợp với mức viện phí được ấn định tùy theo thu nhập của thân chủ và gia đình. Cũng có những trường hợp thân chủ quá chú trọng đến quần áo của họ hơn là lo thực phẩm dinh dưỡng cho con cái . Một vài thân chủ nghèo mạt lại chưng diện bề ngoài gọn gàng và sạch sẽ mặc dù vải áo quần đã sờn do giặt lại nhiều lần .

Biểu hiện qua nét mặt

Khuôn mặt con người đôi khi phản ánh những cảm nghĩ nội tâm và đối với nhân viên xã hội thì biểu hiện qua nét mặt là cơ sở để quan sát. Những cảm nghĩ như buồn, giận và thù địch không cần sự diễn đạt thành lời để biểu thị chúng; sẽ có những dấu hiệu mách bảo hiện lên khuôn mặt cho biết những cảm nghĩ che dấu. Tương tự, những tư thế, dáng điệu, giọng nói, và cử động của cơ thể cũng đều có ý nghĩa .

Những dấu hiệu của sự lo lắng , bất an

Thân chủ chỉ ngồi mép ghế vì cảm thấy xa lạ hay căng thẳng . Nhiều thân chủ của chúng ta không cảm thấy thoải mái trong ngày đầu tiên đến cơ sở xã hội. Họ không biết gì về công việc làm của nhân viên xã hội và những gì họ trông đợi ở cơ sở xã hội. Sức ép từ các vấn đề của họ và việc họ phải nói chuyện với một người xa lạ làm tăng thêm sự bối rối, lúng túng nơi họ. Sự bối rối và căng thẳng mà thân chủ chịu đựng tất yếu làm anh ta sốt ruột, bồn chồn và bất an. Cái cách anh (chị) ta ngồi và phong cách anh (chị) ta tham gia vào câu chuyện với nhân viên xã hội cần được quan sát cẩn thận để biết được các biểu hiện về cảm xúc của anh (chị) ta ra sao, căng thẳng hay thư giãn, tin cậy hay nghi ngờ, tiếp thu hay không chú ý, thiếu chú tâm. Biết được những gì thân chủ cảm nhận hoặc có được ít nhất vài dấu hiệu về cảm nghĩ của họ là bổ ích nhờ đó nhân viên xã hội có thể tự mình biết được cách đáp ứng thích hợp. Chẳng hạn, một thân chủ cảm thấy không được thoải mái có thể được giúp đỡ để thấy thoải mái hơn.
Xem ngôn ngữ cơ thể
Mối quan hệ giữa cơ thể và tâm hồn được thể hiện qua cử động của cơ thể để biểu lộ cảm nghĩ. Hiện tượng này được gọi là ngôn ngữ cơ thể và có thể kèm theo hay không kèm theo ngôn ngữ không lời. Những điều nẩy sinh trong ngôn ngữ cơ thể là truyền thông không lời, nhưng đó là truyền thông không tự ý hay sự truyền tải tín hiệu ngoài ý muốn của người truyền đạt. Tín hiệu thông tin hầu hết là cảm xúc, cảm nghĩ. Người nói muốn dấu diếm thông tin về cảm nghĩ mà anh ta trải qua, tuy thế, thông tin vẫn cứ lộ ra. Chẳng hạn, nước mắt tuôn tràn tùy theo cường độ của cảm xúc, bất kể là người ta có lo bị người khác nhìn ngó không. Tương tự vậy, cảm xúc của cơ thể lộ ra trên nét mặt con người thì người khác dễ dàng nhận ra cho dù chính người ấy lại không thấy được.
Biểu lộ cảm nghĩ không tự ý qua nét mặt
Vì những điệu bộ và những biểu lộ qua nét mặt là không tự ý trong các tình huống ngoài đời thực nên trong một vở kịch diễn viên phải giả vờ đóng vai để miêu tả sinh động các nhân vật trong câu chuyện. Diễn viên diễn vai trên sân khấu không trải qua trong cuộc đời thật những cảm nghĩ của người được miêu tả trong vai đó, nhưng anh ta có thể tưởng tượng ra những cảm nghĩ và kết quả là anh ta tự mình có những cảm nghĩ đó. Thỉnh thoảng, khi thiếu sự phù hợp giữa truyền thông có lời và truyền thông không lời, có thể ước đoán rằng con người chủ tâm che dấu cảm nghĩ của mình đằng sau lời nói. Chẳng hạn, lấy bối cảnh một người đàn ông đang nói về thất bại trong kinh doanh của một người đàn ông khác là đối thủ của mình. Người nói bầy tỏ bằng lời sự cảm thông cho người kia và nỗi buồn của ông ấy vì tai họa đã xảy đến. Tuy vậy điều biểu hiện trên khuôn mặt người nói là một nụ cười láu lỉnh và sự mãn nguyện. Sự không nhất quán giữa sự khẳng định bằng lời và truyền thông không lời là vì sự thật ông ta không muốn lộ ra cảm giác thỏa mãn mà ông ta có. Vì cảm giác mạnh mẽ, những dấu hiệu lộ ra trên khuôn mặt và ông ta không nhận ra là khuôn mặt mình đang phản ánh những cảm nghĩ trong lòng.

Quan sát những gì ngoài những cái đã rõ

Những phạm vi quan sát của nhân viên xã hội mở rộng ra ngoài những gì mình thấy ở thân chủ, nghe từ thân chủ, những gì xảy ra giữa thân chủ và những người khác kể cả những người trong gia đình. Có thể ghi nhận thái độ từ những kiểu truyền thông của con người.

3. VẤN ĐÀM
Mục đích của vấn đàm

Vấn đàm trong công tác xã hội cá nhân nói đến cuộc gặp gỡ giữa nhân viên xã hội và thân chủ trong một cuộc nói chuyện mặt đối mặt . Đó không phải là cuộc nói chuyện tình cờ ngẫu nhiên mà là một hoạt động nghề nghiệp của nhân viên xã hội, bởi vì cuộc nói chuyện được hướng tới những mục đích cụ thể hay mục đích tổng quát. Mục đích có thể là một hay nhiều mục đích sau đây : (1) Thu thập thông tin từ thân chủ hay chia sẻ thông tin cho thân chủ (2) Khảo cứu và đánh giá vấn đề của thân chủ và tình huống liên quan (3) Đưa ra sự giúp đỡ cho thân chủ.

 Thu thập thông tin và chia sẻ thông tin

Thường thường, thân chủ là một người xa lạ hoàn toàn với cơ sở trong lần đến đầu tiên của anh ta. Có thể anh ta mang theo giấy chuyển tuyến, hoặc có thể không. Nhân viên xã hội phải thu thập dữ kiện liên quan đến vấn đề, cần biết thân chủ nhận thức về vấn đề như thế nào, anh ta đã làm gì để giải quyết, các dữ kiện về bản thân thân chủ, về gia đình và về tài nguyên của thân chủ. Khi một thân chủ không có khả năng cung cấp thông tin cần thiết thì các thành viên gia đình được phỏng vấn để cung cấp thông tin.
Vấn đàm là một tiến trình hai chiều

Vấn đàm là một tiến trình hai chiều. Ngay khi thông tin được nhân viên xã hội tiếp nhận thì thông tin cũng được chia sẻ cho thân chủ về những thủ tục giấy tờ và những vấn đề khác của ông (bà) ta, vai trò của ông (bà) ta, vai trò của nhân viên xã hội và về chức năng của cơ sở. Thông tin về cái tôi (bản ngã) là điều quan trọng đối với những thân chủ đến với nhân viên xã hội không phải do tự nguyện mà thông qua sự ép buộc của người khác. Thân chủ còn được thông báo về các dịch vụ khác của cơ sở.
 Khảo cứu và đánh giá tình huống của thân chủ
Những dữ kiện thu thập được từ thân chủ và về thân chủ được phân loại và phân tích, từ đó những khía cạnh thích hợp được nối kết nhau để hình thành nên một bức tranh về tình trạng của vấn đề với những chỉ dẫn rõ ràng về các mối quan hệ nhân quả.
Đánh giá

Trong tiến trình này, nhân viên xã hội áp dụng kiến thức của các khoa học xã hội để hiểu về hành vi thân chủ và những người khác trong tình huống vấn đề. Mỗi một hồ sơ cá nhân có một sự đánh giá về mặt xã hội đơn giản và trung thực hoặc khá phức tạp. Bình thường, trước khi đánh giá tình hình cần có vài cuộc vấn đàm. Đánh giá xã hội cũng được dự liệu và hướng về sự thay đổi tùy thuộc và các dữ kiện xã hội mới mẻ nổi lên vào thời điểm tiến hành. Hơn nữa, không có quy định là đánh giá xã hội phải chấm dứt trước khi tiến trình giúp đỡ bắt đầu. Có nhiều kiểu giúp đỡ có thể và nên được đưa ra khá sớm – và nhiều, nhờ thế hành động giúp đỡ và những cố gắng hình thành một đánh giá xã hội diễn ra song song, cùng lúc.

 Vấn đàm như là một công cụ trực tiếp để giúp đỡ

Với hai mục đích đã nói trên đây, vấn đàm dùng như là một công cụ gián tiếp để giúp đỡ. Thông tin mà nhân viên xã hội suy luận và đánh giá xã hội mà nhân viên xã hội dùng như một kế hoạch dựa vào những hình thức giúp đỡ thích hợp. Nhưng vấn đàm còn có thể được sử dụng như một phương tiện giúp đỡ trực tiếp nữa. Đó là vì trong khi vấn đàm nhiều kỹ thuật của công tác xã hội cá nhân được sử dụng đến. Tương tự, các nguyên tắc cũng được thực hiện trong khi vấn đàm.

Thực chất của giúp đỡ của vấn đàm

Thân chủ công tác xã hội cá nhân có thể được chia ra những trường hợp dài hạn và ngắn hạn, nhóm ngắn hạn bao gồm những trường hợp chỉ cần một lần tiếp xúc và chỉ một lần vấn đàm. Vấn đàm công tác xã hội cá nhân tiến hành khi một người được xem là thân chủ của cơ sở với các cuộc tiếp xúc từng thân chủ một lần hay hai lần hằng tuần. Trong trường hợp khẩn cấp, thân chủ được tiếp xúc thường xuyên hơn. Vấn đàm là một môi truờng giúp đỡ trực tiếp ngay cả ở lần gặp đầu tiên giữa nhân viên xã hội và thân chủ. Thân chủ nhận được sự thân ái, chân thành từ phía cơ sở, họ cảm thấy được chấp nhận, đó chính là một hình thức giúp đỡ và nó khuyến khích thân chủ tiếp tục lui tới với cơ sở để nhận được các hình thức giúp đỡ khác. Có những thân chủ không tìm kiếm sự giúp đỡ cho riêng họ, một số người ngay cả không nhận biết vấn đề của mình là gì, tuy nhiên, họ buộc phải đến với nhân viên xã hội bởi những người dùng quyền hành buộc họ. Họ đến với nhân viên xã hội trong tâm trạng không thích thú đã có từ trước, đối với số thân chủ này thì cuộc tiếp xúc lần đầu có tính quyết định. Nhân viên xã hội có thể sử dụng buổi gặp đầu tiên ấy một cách hiệu quả để xua tan ấn tượng và thành kiến của thân chủ và làm cho họ thoải mái trước sự giúp đỡ của ngành công tác xã hội.

Vấn đàm là một công việc có tính chất nghề nghiệp đòi hỏi nhân viên xã hội tự mình chuẩn bị cho từng lần vấn đàm một. Sau khi xem lại lần vấn đàm trước hay những cuộc vấn đàm với cùng một thân chủ đó, nhân viên xã hội phải lưu ý đến các thiếu sót thông tin, những gì còn mơ hồ cần làm rõ và các lầm lẫn và các thiếu sót của mình cần được xử lý bằng các kỹ năng giải quyết vấn đề. Lưu ý đến cuộc vấn đàm tới phải được dự trù tìm ra những dữ kiện mới mẻ, xóa tan nghi ngờ, kiểm tra lại các giả thiết, đánh giá các sự kiện và để đáp áp dụng các kỹ thuật một cách thích đáng.

4. VÃNG GIA
Nơi vấn đàm

Tổ chức thực hiện các cuộc vấn đàm ở văn phòng của cơ sở có những thuận lợi nhất định. Nó có được sự riêng tư và ngăn ngừa được sự phân tán. Nó có được mức độ trang trọng và tính nghề nghiệp nhất định trong cuộc nói chuyện tới mức mà thân chủ nghĩ là hệ trọng. Nhưng với một số thân chủ, tính chất trang trọng ở văn phòng cơ sở có thể gây ra sự sợ hãi, đòi hỏi họ phải mang ‘ mặt nạ’ để che dấu các bản ngã và cảm nghĩ thực của họ. Đối với những người như thế, có được một hay hai cuộc vấn đàm ở nhà sẽ làm giảm nhẹ cảm giác nặng nề. Cũng có vài xem xét khác cho rằng vãng gia là một công cụ quan trọng và cần thiết của công tác xã hội cá nhân. Trước hết, chắc chắn thân chủ nhận thức rằng nhân viên xã hội đến thăm nhà họ là thể hiện sự quan tâm đến an sinh của họ. Sự thừa nhận của thân chủ về sự quan tâm của nhân viên xã hội là cần cho sự tiến bộ trong tiến trình của công tác xã hội cá nhân. Hơn nữa, có những thân chủ có thái độ phó mặc trước các vấn đề của cuộc sống và sự nhẫn nhục tất yếu trước các vấn đề ngăn cản không cho họ làm bất cứ việc gì. Nhân viên xã hội phải đến với họ hơn là ngồi chờ họ đến với mình tại cơ sở. Một hay hai cuộc vãng gia có thể không mang đến kết quả nào nhưng nhiều lần thăm viếng lại rất cần thiết. Những cuộc vãng gia nhiều lần của nhân viên xã hội được ghi lại trong hồ sơ.
Vãng gia có thể biết được nhiều điều

Vãng gia hoàn toàn có lợi vì khi vãng gia nhân viên xã hội có thể quan sát môi trường gia đình của thân chủ. Quan trọng là, nhân viên xã hội có thể thấy được những tương tác nẩy sinh giữa các thành viên trong gia đình nhờ đó nhân viên xã hội có thể suy ra thái độ và quan hệ trong gia đình ấy.

5. MỐI QUAN HỆ

Các loại quan hệ

Mối quan hệ thân chủ - nhân viên xã hội là một công cụ khác của công tác xã hội cá nhân cần được phác họa. Mối quan hệ giữa bất cứ hai người nào là điều kiện liên kết họ với nhau một cách có ý nghĩa. Chúng ta trải qua nhiều loại quan hệ khác nhau trong đời sống. Trước hết, có các mối quan hệ có được do là thành viên của một gia đình và các nhóm họ hàng. Mối quan hệ cha mẹ - con cái, anh chị em với nhau, cậu - cháu là những ví dụ. Những mối quan hệ này là thường xuyên và không thể thay thế được, kéo dài chừng nào mà người ta còn sống. Trái lại, mối quan hệ giữa hai người bạn, những người láng giềng hay bạn cùng lớp là tạm thời. Mối quan hệ giữa bác sĩ - bệnh nhân, thầy giáo - học sinh, kiểm huấn viên - thực tập viên, luật sư - thân chủ là những quan hệ nghề nghiệp. Người ta cũng có thể phân loại rộng rãi các mối quan hệ tùy thuộc vào tính chất. Mối quan hệ giữa hai người được biểu thị bằng sự căm thù là một mối quan hệ tiêu cực, tuy nhiên, đó cũng là một mối quan hệ. Tương tự như thế, một mối quan hệ đánh dấu bởi lòng thương yêu là một quan hệ tích cực.

Như đã nói ở trên, mối quan hệ thân chủ - nhân viên xã hội là một mối quan hệ nghề nghiệp và tính chất của nó phải tích cực. Chỉ có một mối quan hệ tích cực mới đạt được kết quả có ích như mong muốn, tạo ra môi trường để thực hành các nguyên tắc công tác xã hội cá nhân.
Quan hệ nghề nghiệp là vì những mục đích cụ thể
Mối quan hệ nghề nghiệp có những tính chất chung. Chúng hướng về những mục đích riêng tùy từng lúc. Khi mục đích được đáp ứng, mối quan hệ chấm dứt. Không như mối quan hệ gia đình chan hòa và thấm dần vào nhiều lĩnh vực của cuộc sống con người, mối quan hệ nghề nghiệp chỉ thuộc về những phạm vi quanh những mục đích riêng cụ thể. Thí dụ : mối quan hệ thầy-trò. Cuộc sống học tập của sinh viên là mối quan tâm chính đáng đối với thầy giáo, người lãnh trách nhiệm về việc sinh viên học hành như thế nào ở trường. Thầy giáo không bận tâm sinh viên làm gì sau giờ học ở trường. Trái lại, mối quan hệ giữa cha mẹ-con cái lại bao gồm tất cả. Không có lĩnh vực nào của cuộc sống đứa trẻ mà lại không nằm trong tầm nhìn của bố mẹ. Trong quan hệ gia đình, tính phụ thuộc cũng ngấm ngầm dưới hình thức nầy hay hình thức khác. Cha mẹ chăm sóc con cái và khi cha mẹ già cả thì con cái đã lớn, có nhiệm vụ chăm sóc tuổi già cho cha mẹ. Tuy nhiên, bộ đôi trong một quan hệ nghề nghiệp không bị trói buộc bởi tính phụ thuộc. Ở đó, khái niệm phụ thuộc bị thay thế bởi nền kinh tế thị trường, nghĩa là, dịch vụ chuyên nghiệp có thu tiền với sự thỏa thuận tiền bạc nào đó.
Uy quyền ngầm định trong quan hệ nghề nghiệp

Trong quan hệ nghề nghiệp như giữa bác sĩ và bệnh nhân hay nhân viên xã hội - thân chủ, người có trình độ chuyên môn dùng hai loại uy quyền : một, dựa vào kiến thức của mình và hai là dựa vào quyền được xã hội chuẩn thuận cho họ được hành nghề. Nhờ vào kiến thức và kỹ năng, người có trình độ chuyên môn có thể áp dụng những phương thức phù hợp để giúp bệnh nhân hay thân chủ của mình. Sự sở hữu kiến thức và kỹ năng là công cụ để đạt được một uy quyền nhất định được quy định trong việc thực thi nghề nghiệp.

Quan hệ của nhân viên xã hội là chan hòa

Xuất phát từ các tính chất đã nói ở trên đây, quan hệ nhân viên xã hội - thân chủ có vài tính chất đặc biệt. Mặc dù nó được gắn với một hay nhiều mục đích riêng nhưng nó chan hòa hơn quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Sự chan hòa trong quan hệ nhân viên xã hội - thân chủ xảy ra là kết quả của những quan hệ giao tiếp trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Nó đòi hỏi ứng xử với những lĩnh vực hữu hình và cụ thể của cuộc sống cũng như lĩnh vực vô hình của tình cảm.
Quan hệ chan hòa tạo ra sự ràng buộc mạnh mẽ

Nói như thế để thấy rằng một tình thân thiện có tính nghề nghiệp không dễ dàng thấu hiểu được đối với thân chủ không được giáo dục cũng như không được chuẩn bị cho việc chấm dứt quan hệ sẽ phải xảy đến hoặc sớm hay muộn. Một sự ràng buộc tình cảm hình thành nên trong quan hệ mạnh mẽ hơn sự ràng buộc có được trong những quan hệ khác. Sự ràng buộc tình cảm thỏa mãn cho nhiều thân chủ và họ thấy khó mà chấm dứt được quan hệ. Việc chấm dứt quan hệ do nhân viên xã hội nghỉ việc, và người khác tiếp tục trường hợp một thời gian dài trước khi kết thúc. Mối quan hệ tình cảm đã có được giữa thân chủ và nhân viên xã hội đầu tiên làm thân chủ thấy khó khăn trong việc thích ứng với nhân viên xã hội thứ hai.

Do việc nhân viên xã hội đến tìm hiểu nhiều khía cạnh của đời sống thân chủ thông qua quan hệ tích cực cho nên thân chủ có khuynh hướng tạo cho quan hệ một sự đồng điệu bằng cách muốn biết nhiều về đời tư của nhân viên xã hội : anh ta có thể hỏi địa chỉ của nhân viên xã hội và muốn mối quan hệ tiếp tục ở mức độ riêng tư.

Quan hệ giữa nhân viên xã hội và thân chủ, ngoài là một phương tiện giúp đỡ, đôi khi tự nó là một hình thức giúp đỡ. Đối với một thân chủ bị bối rối, lo âu và vô vọng nếu được đối xử nhã nhặn và được lắng nghe kiên nhẫn, không có phê phán, đó chính là một kinh nghiệm được giúp đỡ.
Nuôi dưỡng sự phát triển của thân chủ

Quan hệ nhân viên xã hội - thân chủ có nghĩa vụ nuôi dưỡng sự phát triển của thân chủ. Không phải mọi quan hệ giữa con người với nhau đều tạo ra sự phát triển. Giả sử A và B được thừa nhận bằng một quan hệ trong đó B lệ thuộc vào A một cách quá đáng và B tuân thủ những mệnh lệnh hay những chỉ bảo của A không suy nghĩ gì cả. Sự trói buộc như thế không thể làm cho B phát triển được. Sự thực hiện những nguyên tắc có liên quan đến quyền tự quyết và sự tham gia của thân chủ nhằm truyền các yếu tố nuôi dưỡng sự phát triển trong quan hệ nhân viên xã hội - thân chủ. Giúp đỡ một người tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề của họ và tham gia vào việc ra quyết định tìm những giải pháp không chỉ đem lại sự phát triển nơi người được giúp. Trong việc áp dụng những kỹ thuật cũng vậy phải gắn với mục đích phát triển của thân chủ .
Mối quan hệ phải tích cực

Khái niệm truyền thông là một tiến trình phát đi thông tin và thông điệp giữa hai người hay nhiều hơn. Trong công tác xã hội , nó có liên hệ đến khái niệm quan hệ nhân viên xã hội - thân chủ, mặc dù chúng là hai hiện tượng khác nhau hoàn toàn. Chúng phụ thuộc lẫn nhau có nghĩa về phía nhân viên xã hội những kỹ năng truyền thông khởi tạo ra một quan hệ tích cực và một quan hệ tích cực tạo thuận lợi cho sự truyền thông có tính xây dựng giữa nhân viên xã hội và thân chủ. Mặc dù mối quan hệ tiến triển tùy vào hai người nhưng đó là phận sự của nhân viên xã hội sử dụng tài năng của mình để bắt đầu một mối quan hệ tích cực với thân chủ .

Sự hòa hợp biểu thị mối quan hệ tích cực

Sự hòa hợp là một hiện tượng quan trọng trong công tác xã hội cá nhân. Từ ngữ "hòa hợp" được dùng để chỉ tính chất tích cực của quan hệ nhân viên xã hội - thân chủ. Nhân viên xã hội có thể đi tìm những dấu hiệu hòa hợp sau đây liên quan đến quan hệ với thân chủ.
• Thân chủ tỏ vẻ (quan tâm) thích thú khi gặp nhân viên xã hội và giữ đúng hẹn.
• Thân chủ bày tỏ cảm nghĩ của mình trong suốt cuộc vấn đàm.
• Thân chủ tham gia thích đáng vào cuộc vấn đàm, nói về chính mình, về những chuyện đã trải qua, về những quan hệ vv...
• Thân chủ biểu thị quyết tâm hành động

Công tác xã hội cá nhân sánh như ban nhạc hòa tấu

Lắng nghe, quan sát, vấn đàm, vãng gia và mối quan hệ là những công cụ của công tác xã hội cá nhân. Tư vấn thường được xem như là công cụ. Tư vấn là một dạng đặc biệt của vấn đàm. Khái niệm tư vấn như là một công cụ cần sự đánh giá, hiểu biết dưới ánh sáng của những kỹ thuật giúp đỡ chúng là những viên gạch hình thành nên tiến trình tư vấn. Cần lưu ý rằng thường là hai hay nhiều công cụ vận hành với nhau, hòa tấu giống như những nhạc cụ trong một cuộc trình tấu. Thí dụ : nhân viên xã hội trong khi lắng nghe thân chủ với đôi tai thì đôi mắt cũng làm việc, đầu óc thì quan sát và suy nghĩ. Trong lúc vấn đàm, nhân viên xã hội cũng lắng nghe, quan sát và truyền thông. Sự liên hệ giữa mối quan hệ và truyền thông đã được chỉ rõ rồi. Nói tóm lại, những công cụ của công tác xã hội cá nhân liên kết lẫn nhau một cách năng động để tạo ra những thành quả mong muốn.

Không có nhận xét nào: