Có nhiều khái niệm về công tác xã hội, nhưng theo Liên đoàn các nhà hoạt động công tác công tác xã hội quốc tế thì công tác xã hội (CTXH) trực tiếp can thiệp giúp đỡ các cá nhân, gia đình, nhóm người, cộng đồng (làng, xã) có vấn đề xã hội và nguy cơ có vấn đề xã hội gọi chung là đối tượng có vấn đề xã hội (khủng hoảng trong gia đình, ly thân, ly hôn, bạo lực trong gia đình, gia đình có người lang thang, tàn tật, già cả ốm đau, có người phạm tội, nghiện ma tuý, mại dâm, cờ bạc, nghiện rượu, nhiễm HIV/AIDS, gia đình có trẻ em mồ côi, trẻ em bị ngược đãi, lao động nặng nhọc độc hại, trẻ em bị xâm hại tình dục, các gia đình nghèo, cộng đồng nghèo, cộng đồng có đông người mắc tệ nạn xã hội, tội phạm, trộm cắp, làm trái pháp luật…) đạt được sự thay đổi nhằm mang lại hạnh phúc cho con người và sự bình yên cho xã hội, thông qua phát triển khả năng tự giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh ( thay đổi nhận thức, thay đổi hành vi, tiếp cận các nguồn lực, tiếp cận các dịch vụ và tự vận động phát triển hoà nhập cộng đồng).
Công tác xã hội vận dụng khoa học xã hội và lý thuyết về hành vi con người để phân tích và phát triển khả năng tự giải quyết các vấn đề; công tác xã hội xem xét mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh xã hội của họ dựa trên các giá trị về quyền con người, nhân phẩm và giá trị con người, công bằng xã hội cũng như sự hài hoà giữa nhu cầu và quyền cá nhân với cộng đồng. Đây cũng được coi là vấn đề nguyên tắc của hoạt động công tác xã hội. Lịch sử của công tác xã hội bắt nguồn từ những xã hội cổ xưa. Hiệp ước do Công tước Ôlêc (nước Nga) ký kết với người Hy Lạp năm 911, là văn bản đầu tiên đề cập về sự quan tâm của Nhà nước đối với những công dân cần được trợ giúp của mình. Năm 1601, Đạo luật Elizabeth của Anh được ban hành nhằm vào sự giúp đỡ việc làm cho người nghèo, chăm sóc người già, người tàn tật và trẻ em mồ côi .v.v.
Cho đến đầu thế kỷ XIX, các hoạt động mang hình thái công tác xã hội đã được các tình nguyện viên ở Mỹ thông qua các Uỷ ban cải thiện hình thức vệ sinh và vụ giải phóng nô lệ đã giúp đỡ chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo, đặc biệt là giúp những nô lệ vừa được giải phóng nhanh chóng hoà nhập vào cộng đồng xã hội.
Giai đoạn 1850 - 1865, những hoạt động khởi nguồn của công tác xã hội được thực hiện bởi Uỷ ban từ thiện quốc gia, Uỷ ban từ thiện cộng đồng ở các nước phương Tây. Thời kỳ này hoạt động của các uỷ ban đều hướng tới mục đích: xây dựng những thiết chế nhằm duy trì trật tự, ổn định xã hội.
Công tác xã hội được xác định là một nghề chuyên nghiệp trên thế giới, mốc đánh dấu sự kiện này là sự ra đời của Liên đoàn những nhà hoạt động công tác xã hội quốc tế vào năm 1946 và Hiệp hội các trường đào tạo nhân viên công tác xã hội bậc đại học và sau đại học. Năm 2006, Liên đoàn đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 60 ngày thành lập và hội thảo khoa học về xu hướng toàn cầu về phát triển công tác xã hội như một nghề chuyên nghiệp.
Hiện nay ở các nước phát triển như Anh, Mỹ, Đức, Thuỵ Điển, Nhật Bản… cứ 1000-2000 dân có một cử nhân công tác xã hội được đào tạo ở trình độ đại học và 2-3 nhân viên công tác xã hội bán chuyên nghiệp. Cán bộ, nhân viên công tác xã hội có thể làm việc trong các cơ quan Nhà nước về an sinh xã hội, công tác xã hội ở cấp quốc gia, vùng, tỉnh, huyện và cấp xã; các trung tâm công tác xã hội cấp quận, huyện; các tổ chức phi Chính phủ và tư nhân cung cấp dịch vụ về công tác xã hội; các trường học phổ thông và các trường đại học; các trung tâm y tế cộng đồng, các bệnh viện, các toà án, các nhà tù và cơ sở giam giữ, các trường giáo dưỡng.
Trên 60 năm qua, thế giới đã chứng kiến vai trò và hiệu quả to lớn của công tác xã hội, nó không những trực tiếp giải quyết được những vấn đề xã hội không mong muốn nẩy sinh đối với các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội, cộng đồng dân cư, giảm bớt sự bất bình đẳng và phân tầng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước mà còn góp phần giữ vững ổn định xã hội, tạo sự đồng thuận, công bằng và phát triển bền vững vì hạnh phúc của tất cả các thành viên trong xã hội.
Qua việc tìm hiểu một số mô hình và một số đặc trưng của công tác xã hội của các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta có thể đưa ra một số nhận định sau:
Thứ nhất, công tác xã hội được công nhận là một nghề trên khắp thế giới từ 60 năm trước đây và tuỳ điều kiện hoàn cảnh của mỗi nước mà CTXH sẽ có những sắc thái riêng nhưng vẫn cần tuân thủ những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai, công tác xã hội sẽ phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, song hành với sự phát triển này để khắc phục những mặt trái nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới một nền an sinh cho toàn dân và sự công bằng, dân chủ trong toàn xã hội.
Thứ ba, công tác xã hội luôn được các nước quan tâm phát triển và ứng xử như một khoa học với phương pháp tiếp cận, kỹ năng nghề nghiệp và quy điều đạo đức riêng, nhiều nước trên thế giới đã có trường đại học về công tác xã hội; chính vì vậy mà hoạt động công tác xã hội ngày càng hiệu quả hơn.
Thứ tư, công tác xã hội chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực và thể chế chính sách, thể chế tổ chức. Qua đó tiếng nói của cán bộ nhân viên xã hội như là một kênh thông tin giúp lãnh đạo các cấp hoạch định các chính sách xã hội, đưa ra các dự báo về các vấn đề xã hội mới nảy sinh trong đời sống xã hội, góp phần chỉ ra những rạn nứt trong cộng đồng để lãnh đạo các cấp kịp thời điều chỉnh các hoạt động của mình, chỉ có như vậy mới có được một nền an sinh tiến tiến mà ở đó mọi công dân đều có đầy đủ các cơ hội để phát triển tiềm năng và sức mạnh của mình, góp phần thực hiện mục tiêu xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tính đến năm 2007, nước ta có khoảng 7,5 triệu người cao tuổi, trong đó có khoảng 200 nghìn người già cô đơn; 5,3 triệu người tàn tật trong đó có khoảng 300 nghìn người tàn tật nặng không còn khả năng tự phục vụ và khả năng lao động; trên 1,4 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và khoảng 2,7 triệu hộ nghèo; trong số các đối tượng xã hội nêu trên có khoảng 1,3 triệu người thuộc diện khó khăn cần trợ cấp xã hội chiếm khoảng 1,52% dân số; 3006 xã tỷ lệ nghèo trên 25% và 58 huyện tỷ lệ nghèo trên 50% và hàng nghìn xã đặc có vấn đề xã hội (tệ nạn xã hội, môi trường sống ô nhiễm, nghèo khổ…); hàng triệu cá nhân, gia đình, nhóm xã hội nẩy sinh các vấn đề xã hội (ly thân, ly hôn, bạo lực trong gia đình, thiếu quan tâm đến con cái, căng thẳng vì nghèo khổ, xâm hại tình dục, bỏ nhà đi lang thang, tệ cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, tội phạm, HIV/AIDS bị cộng đồng xa lánh…). Tuy vậy, tất cả các đối tượng có vấn đề xã hội nêu trên chỉ nhận được sự trợ giúp của đội ngũ cán bộ (nhân viên) công tác xã hội bán chuyên nghiệp (khoảng 15-20 nghìn người), những người làm việc theo bản năng và trực giác của họ, thiếu nhận thức, hiểu biết và những kỹ năng cần thiết về công tác xã hội, do vậy hiệu quả giải quyết các vấn đề xã hội của cá nhân, gia đình, nhóm xã hội và cộng đồng dân cư không cao và thiếu sự phát triển bền vững. Số cán bộ (nhân viên) công tác xã hội được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng (khoảng 2000 người) trong mấy năm gần đây lại chưa được bố trí làm việc đúng với ngành nghề đào tạo, gây ra sự lãng phí về nguồn nhân lực này. Hiện nay, trong cả nước có tới trên 30 trường đại học đào tạo cử nhân công tác xã hội. Các thầy cô giáo và các sinh viên đang trong tâm trang lo lắng học xong làm việc gì, chất lượng đào đạo có đáp ứng nhu cầu xã hội hay không, tiêu chuẩn chức danh cán bộ nhân viên CTXH là gì, quy định đạo đức nghề nghiệp ra sao?
Nhận xét một cách tổng quát: Công tác xã hội ở Việt Nam mới có các yếu tố thành phần, đang trong quá trình hình thành, chỉ được xếp vào giai đoạn đầu của quá trình phát triển, mặc dù hàng trăm năm trước đây đã có các hoạt động trợ giúp xã hội mang hình dáng của công tác xã hội. Nếu đem so sánh tính chuyên nghiệp của công tác xã hội ở nước ta với các nước phát triển và ngay cả những nước trong khu vực, chúng ta còn một khoảng cách khá lớn, sự thiếu hụt này thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất, về nhận thức : Hiện nay các ngành, các cấp và người dân còn chưa biết nhiều đến ngành công tác xã hội, đến cán bộ (nhân viên) công tác xã hội, chưa nhận dạng được họ là ai, làm việc gì và ở đâu, vai trò, nhiệm vụ công tác xã hội là gì, sự khác biệt giữa công tác xã hội với các ngành nghề liên quan khác.
Thứ hai, về mặt thể chế chính sách: Nước ta chưa có định hướng cụ thể về phát triển CTXH, do vậy cơ sở pháp lý cho sự phát triển nghề CTXH chưa đựơc hình thành một cách có hệ thống, cho đến nay mới có duy nhất quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về chương trình khung đào tạo chuyên ngành CTXH và cho phép một số trường đại học mở ngành đào tạo cử nhân CTXH. Việc xác định các vị trí làm việc cho nhân viên công tác xã hội trong các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức sự nghiệp và trong các tổ chức khác cũng chưa được xác lập, kể cả các NGO và các tổ chức đoàn thể có tham gia hoạt động công tác xã hội. Đến nay nước ta cũng chưa có tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp về CTXH và bộ tiêu chuẩn chức danh cụ thể cho các nhân viên xã hội chuyên nghiệp ở các cấp và các công việc cụ thể; chưa có danh mục bảng lương cho các chức danh cụ thể về công tác xã hội như các nghề nghiệp khác.
Về thể chế tài chính, cũng chưa có cơ chế Nhà nước mua dịch vụ về CTXH để cung cấp cho các đối tượng xã hội yếu thế, chưa có cơ chế cung cấp tài chính cho các NGO để hoạt động công tác xã hội thông qua các hợp đồng. Bên cạnh đó vấn đề xã hội hoá việc huy động nguồn lực toàn xã hội để trợ giúp và cung cấp các dịch vụ xã hội cho người dân có vấn đề xã hội cũng chưa quản lý có hiệu quả, về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sự huy động nguồn lực toàn xã hội .
Thứ ba, về mạng lưới tổ chức hoạt động và mạng lưới nhân viên CTXH:
Hệ thống các tổ chức liên quan đến cung cấp các dịch vụ về công tác xã hội thuộc ngành Lao động- Thương binh và Xã hội cũng chưa được hình thành đầy đủ theo 4 cấp theo đúng nghĩa của nó, lực lượng cán bộ lại quá mỏng và cũng thiếu tính chuyên nghiệp; các hoạt động hiện tại mạng nặng tính quản Nhà nước hơn là chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ cung cấp dịch vụ công cho các đối tượng có vấn đề xã hội, nhằm giúp họ tự giải quyết các vấn đề xã hội nẩy sinh và phát triển bền vững. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam và một số tổ chức đoàn thể xã hội khác cũng vậy, hoạt động công tác xã hội của họ chỉ mang tính chất bán chuyên nghiệp, xuất phát từ tính chất nhân đạo từ thiện “giúp các đối tượng có vấn đề xã hội” vượt qua khó khăn trước mắt, họ không có chức năng giải quyết cơ bản vấn đề xã hội phát sinh của các đối tượng xã hội và bảo đảm cho phát triển bền vững. Bên cạnh đó một yếu tố vô cùng quan trọng trong chỉnh thể của hệ thống CTXH là Hiệp hội công tác xã hội, Hiệp hội các trường đào tạo nhân viên công tác xã hội (hiệp hội nghề nghiệp) cũng chưa được hình thành. Một mặt có thể vì sự phát triển chưa đủ mạnh nên chưa có hiệp hội, mặt khác việc chưa có các hiệp hội nghề nghiệp này cũng sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về công tác xã hội.
Mạng lưới cán bộ (nhân viên) CTXH của Việt Nam chưa được thiết lập cơ bản và hệ thống, do hạn chế về nhận thức, và thiếu thể chế chính sách. Mặc dù có đội ngũ cán bộ văn hoá - xã hội ở cấp xã, phường, thị trấn, cán bộ trong các trung tâm bảo trợ xã hội, cán bộ hoạt động trong hệ thống hội chữ thập đỏ và các tổ chức NGO (khoảng 15.000- 20.000 người) cung cấp dịch vụ cho người già, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người khuyết tật v.v... họ chỉ là những nhân viên công tác xã hội bán chuyên nghiệp, hoạt động theo bản năng và trực giác, chưa phải là các nhân viên CTXH chuyên nghiệp có nhận thức, hiểu biết và kỹ năng cần thiết.
Thứ tư, việc đào tạo cán bộ công tác xã hội: Hiện nay ở nước ta cũng mới dừng lại ở giai đoạn ban đầu, kinh nghiệm đào tạo cũng đều dưới 10 năm, đội ngũ giảng viên thiếu, nhiều trường chưa có giáo viên được đào tạo cơ bản. Việc đào tạo chỉ có hiệu quả và chất lượng khi Nhà nước có một hệ thống chỉnh thể về công tác xã hội đó là thể chế chính sách, thể chế tổ chức và đội ngũ nhân viên CTXH chuyên nghiệp.
Thứ năm, về chiến lược phát triển CTXH: Đến giờ, Việt Nam chưa có một chiến lược tổng thể và đầy đủ từ khâu xây dựng cơ sở pháp lý, tổ chức, đến đào tạo và sử dụng nhân viên công tác xã hội. Để công tác xã hội phát triển như một nghề chuyên nghiệp cần có sự phát triển một cách đồng bộ cả 4 nhóm yếu tố trên (thể chế chính sách, thể chế tổ chức, thể chế tài chính và phát triển nhân lực về CTXH)
Đã đến lúc nước ta phải quan tâm phát triển công tác xã hội như một nghề chuyên nghiệp, nếu không nói là quá muộn, nguy cơ không “cân đối” giữa phát triển kinh tế và xã hội sẽ diễn ra. Phát triển nghề CTXH sẽ hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững, đảm bảo tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với phát triển xã hội và công bằng xã hội./.
TS. Nguyễn Hải Hữu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét