skip to main | skip to sidebar

CÔNG TÁC XÃ HỘI CHUYÊN NGHIỆP - SOCIAL WORK PROFESSION IN VIET NAM

Dành cho Nhân viên xã hội, giảng viên và sinh viên đang học ngành công tác xã hội và những người quan tâm đến ngành này.Các bạn tham gia góp ý để trang blog này ngày càng phong phú bằng cách ghi ý kiến của mình tại mục Nhận xét ở dưới mỗi bài được đăng. Cám ơn các bạn.Hãy cùng nhau chăm lo cho ngành lớn mạnh và có chất lượng vì hiện nay nó còn non trẻ và mong manh lắm.Ngành này rất cần những người thật sự có tâm và tất cả vì những người kém may mắn trong xã hội.

6 tháng 3, 2008


Posted by Nhân viên xã hội at 16:36
Labels: Ảnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)

6 nguyên tắc làm chủ cảm xúc

6 nguyên tắc làm chủ cảm xúc
TTCT - Khi mất kiểm soát cảm xúc, bạn dễ ra quyết định sai lầm hoặc có hành vi lệch lạc. Cho nên bạn phải học cách làm chủ cảm xúc:
1- Hiểu bản chất của cảm xúc: là kết quả phản ứng của bạn trước môi trường xung quanh. Việc xảy đến không quan trọng bằng cách bạn tiếp nhận nó.
2- Chấp nhận cảm xúc tiêu cực: đừng kìm nén chúng kẻo chúng sẽ tàn phá bạn từ bên trong rồi bất ngờ “nổ tan xác” bạn. Khi chấp nhận, bạn tạo cho chúng lối thoát lành mạnh để tự tin đối đầu với chúng. Viết nhật ký, vận động thân thể, tâm tình với bạn bè, người thân sẽ giảm bớt tác hại của chúng.
3- Suy nghĩ trước khi hành động: suy đi nghĩ lại trước khi làm gì đó dưới ảnh hưởng của cảm xúc. Hãy cân nhắc những hậu quả bạn có thể gặp trong tương lai gần. Học cách phân tích toàn bộ tình hình rồi hãy hành động.
4- Cảnh giác với ngôn từ xỉ vả, chỉ trích: chúng dễ khiến bạn điên tiết. Khi đó hãy niệm câu thần chú: “Gậy, đá có thể làm gãy xương ta nhưng lời nói đừng hòng làm ta trầy xước”. Luôn học cách cư xử nhã nhặn, tránh nổi khùng.
5- Thay đổi nếp suy nghĩ: hãy lập trình lại cách phản ứng trong não bạn với những tình huống cụ thể. Ví dụ, bạn hay trầm uất, suy sụp khi không đạt được mục tiêu. Bây giờ bạn hãy bắt đầu khiêu vũ, thậm chí nhảy cẫng lên, rồi tinh thần bạn được vực dậy, bạn sẽ thấy vấn đề chỉ là một thách thức không hơn.
6- Nuôi dưỡng cảm xúc tích cực: chăm sóc bản thân, ăn uống điều độ, ngủ đủ, vệ sinh sạch sẽ, tập thể dục đều đặn, đặt mục tiêu thực tế, tập trung vào điều bạn muốn và cần. Những điều này sẽ giúp bạn xây dựng hệ thống phòng thủ trước cảm xúc tiêu cực.
HƯƠNG LAN (Theo ezinearticles.com)

Người hòa đồng thì sống lâu

Người hòa đồng thì sống lâu
Có khả năng kiềm chế tốt hay dễ tiếp thu cái mới không đồng nghĩa với việc bạn sẽ sống lâu. Trong khi đó, lối sống chan hòa là điều gần như quyết định để bạn thọ trăm tuổi.
Phải chăng một vài loại cá tính sẽ khiến người ta sống lâu hơn?
Để trả lời cho câu hỏi này, một nghiên cứu đăng trên Tạp chí American Geriatrics Society đã tìm hiểu đặc điểm cá tính của 246 người con của những người từng sống ít nhất 100 tuổi. Nghiên cứu chọn con của những người cao niên bởi họ dễ dàng theo dõi qua thời gian hơn là những người tuổi đã cao (vì họ có thể qua đời trước khi nghiên cứu kết thúc). Ngoài ra, con của những người sống tới trăm tuổi cũng thường sống lâu hơn.
Nghiên cứu cho thấy những người sống lâu nhất là những người hòa đồng, ưa vận động và ít bị kích động hơn những người khác. Những cụ bà sống lâu cũng thường dễ đồng cảm và hợp tác hơn những phụ nữ có tuổi thọ bình thường.
Phát hiện này tương đồng với những gì thuyết tiến hóa đã nói: những người hướng ngoại để kết bạn và giúp đỡ người khác thường là những người có đủ khả năng để tích lũy tài nguyên cho mình, và vượt qua những giai đoạn khó khăn.
Tuy nhiên, điều thú vị trong nghiên cứu này là một vài đặc điểm khác mà bạn có thể xem là lợi thế lại không giúp ích gì cho việc sống lâu. Chẳng hạn, những người có khả năng kiềm chế hơn cũng không có nghĩa là sẽ sống lâu hơn. Hay như người dễ tiếp thu cái mới cũng chẳng có quan hệ gì với tuổi thọ.
Dù thế nào đi nữa, nghiên cứu mới cũng đề nghị rằng nếu muốn sống lâu, bạn nên cố gắng sống chan hòa hết mức có thể.
T. An (theo Time)

Theo bạn, sau khi bạn tốt nghiệp ra trường, bạn mong muốn có một tổ chức nghề nghiệp để có cơ hội được nâng cao nghề nghiệp?

  • “Bệnh viện” cho trẻ đường phố
  • Tìm hiểu về giới, tình dục,và sức khỏe
  • Trung tâm Đào tạo kỹ năng nghề NTT

Tuyển dụng

Cần tuyển 4 cán bộ công tác xã hội và nghiên cứu Khoa học Xã hội Điều kiện - Tốt nghiệp Đại học trở lên, chuyên ngành Khoa học Xã hội (Social Sciences) hoặc Công tác xã hội (Social Work). - Có năng lực về công tác xã hội và nghiên cứu khoa học Địa chỉ liên hệ: La Hồng Huy GĐ trung tâm nghiên cứu KHXH&NV trường Đại học An Giang Số 25 Võ Thị Sáu TP Long Xuyên tỉnh An Giang DĐ 0918988297 Email lh...@agu.edu.vn
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ AGU's e-mail system Contact us: mailer_ad...@agu.edu.vn Tel: +84 76 3945454 - Ext: 225
AGU Home page: http://www.agu.edu.vn

Theo bạn, kỹ năng nào trong thực hành CTXH chuyên nghiệp là quan trọng nhất, bạn xếp theo thứ tự quan trọng nhất đến mức quan trọng thấp nhất từ 1 đến 10?

Đăng ký vào nhóm Công tác xã hội chuyên nghiệp

Google Groups
Đăng ký vào Công tác xã hội chuyên nghiệp
Email:
Ghé thăm nhóm này

Ghé thăm nhóm CTXH

Google Groups
Công tác xã hội chuyên nghiệp
Ghé thăm nhóm này
  • Test chọn loại nghề (Tiếng Pháp)
  • Các loại test hướng nghiệp (Tiếng Pháp)
  • Test hướng nghiệp ( Tiếng Anh)
  • Test khám phá bản thân ( Tiếng Anh)
  • Trắc nghiệm định hướng nghề nghiệp (Tiếng Việt)
  • Test về nhân cách MBTI (Tiếng Anh)
  • Trung tâm đào tạo kỹ năng nghề NTT
  • “Xóm nghĩa địa”
  • Việc nhà: chìa khóa chất lượng sống của phụ nữ
  • Vấn đề giao tiếp
  • Người nghèo: làm sao từ đáy đi lên?
  • Dự thảo lần thứ 4 Luật Người khuyết tật có nhiều điểm mới(10/3/2009)
  • Phòng chống AIDS, ma túy, mại dâm: Hầu hết các mục tiêu chưa đạt yêu cầu
  • Liên hợp quốc tại Việt Nam kêu gọi “Đoàn kết để chấm dứt nạn bạo hành đối với phụ nữ”(6/3/2009
  • Tủ sách mở Wikibooks
  • GIÚP ĐỠ MỘT NGƯỜI BẠN
  • Nhóm CTXH, xin mời các bạn tham gia viết bài
  • Trung tâm đào tạo kỹ năng nghề NTT

Hanoi

Visitors

Kiteboarding Lessons
Kiteboarding Lessons

Tỉ lệ phụ nữ sử dụng ma túy đang tăng lên

TT (Hà Nội) - Cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hiệp Quốc (UNODC) cho biết độ tuổi người sử dụng ma túy lần đầu tiên ở VN đang giảm xuống và tỉ lệ phụ nữ sử dụng ma túy lại tăng lên (trong nhóm gái mại dâm, các cô gái làm ở quán karaoke, vũ trường).
Năm 1994 số thanh thiếu niên nghiện ma túy chỉ chiếm xấp xỉ 40% tổng số người nghiện, năm 2003 con số này là 65-70%. Ước tính hiện có 5,8% người nghiện ma túy ở VN dưới 18 tuổi. Nhóm tuổi chiếm số lượng lớn nhất trong nhóm nghiện chích ma túy cũng là nhóm rất trẻ, 18-25 tuổi với 46,2%. Hiện các trung tâm cai nghiện ở VN chỉ cung cấp dịch vụ được cho 45.000 người, trong khi cả nước có tới 170.000 người nghiện.
Cũng theo UNODC, dịch HIV ở VN vẫn lây lan chủ yếu trong nhóm người nghiện chích ma túy.
L.ANH
(Báo Tuổi Trẻ ngày 18/01/2009)

Một số câu hỏi để giúp chúng ta khám phá chính mình.

Một số câu hỏi để giúp chúng ta khám phá chính mình.
1. Hãy nghĩ đến một người đã tạo nên sự khác biệt tích cực trong đời bạn. Người ấy có những phẩm chất nào mà bạn cũng muốn có!
2. Hãy tưởng tượng 20 năm sau - lúc bạn đang quây quần bên những người quan trọng nhất đời bạn. Họ là ai và đang làm gì?
3. Nếu bạn được ở nguyên ngày trong một thư viện đồ sộ để nghiên cứu bất cứ thứ gì bạn muốn, bạn sẽ nghiên cứu gì?
4. Lên danh sách 10 điều bạn muốn làm. Đó có thể là hát, khiêu vũ, xem tạp chí, vẽ, đọc, mơ màng…bất cứ thứ gì mà bạn hết sức muốn làm!
5. Hãy mô tả khoảng khắc bạn được truyền cảm hứng một cách sâu xa.
6. Trong năm năm tới, tờ báo ở địa phương bạn sẽ đăng một bài viết về bạn, và họ muốn phỏng vấn ba người….bố/mẹ, anh/chị, em trái/ em gái. Bạn muốn họ nói gì về bạn?
7. Nếu bạn được trải qua một giờ với một người, người đó sẽ là ai? Tại sao bạn lại chọn họ? Bạn sẽ hỏi gì?
8. Ai cũng có một hay nhiều tài năng, hãy liệt kê những tài năng mà bạn có.
Theo "7 thói quen giúp bạn trẻ thành đạt”- Sean Covey

Bạn mong đợi gì trong cuộc sống?

Những thống kê giật mình

Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của NH Thế giới nhận xét, VN tụt hậu về kinh tế tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore
Theo sgtt.com.vn ngày 10.12.2008
(Xin xem chi tiết mục link bên dưới)

Tham khảo nhanh: Bạn hãy chọn 5 vấn đề liệt kê dưới đây của Việt Nam mà bạn quan tâm nhiều nhất

Tham khảo ý kiến: Bạn thích chọn đối tượng nào để thực hành CTXH chuyên nghiệp sau khi ra trường?

Tham khảo ý kiến: Bạn thích thực hành phương pháp nào trong CTXH chuyên nghiệp?

MỘT TRONG NHỮNG QUÀ TẶNG CÓ Ý NGHĨA NHẤT CỦA THƯỢNG ĐẾ LÀ VIỆC KHÔNG TRẢ LỜI NHỮNG LỜI CẦU NGUYỆN
Nguyễn Văn Sơn (st)

Chênh lệch giữa giàu và nghèo

Theo nghiên cứu của chương trình phát triển của LHQ (UNDP), hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập. Những người giàu nhận được 40%phúc lợi xã hội, trong khi người nghèo nhất chỉ nhận được gần 7%. Nhóm giàu nhất nhận được 47% tổng số tiền lương hưu, trong khi người nghèo nhất nhận được có 2%. NHóm giàu nhất hưởng 45% dich vụ y tế, nhưng người nghèo nhất chỉ nhận được 7%. Tỷ lệ trợ cấp giáo dục cho những người giàu nhất là 35% và người nghèo nhất là 15%.
Theo Tổng cục thống kê, tỷ lệ đói nghèo ở VN đã giảm xuống còn 14,8% nam 2007, từ mức 20,2% nam 2005. Tuy nhiên, Viện Khoa học lao động và xã hội (Bộ LĐ và TBXH) đánh giá: tỷ lệ đói nghèo trên toàn quốc dự kiến sẽ tăng lên 17% cho đến cuối năm 2008 thay vì giảm xuống 13,83% như kế hoạch đề ra trong năm ngoái.
(Theo SGTT ngày 19/11/2008)

Two Social Workers

Two Social Workers
Two social workers were walking through a rough part of the city in the evening. They heard moans and muted cries for help from a back alley. Upon investigation, they found a semi-conscious man in a pool of blood."Help me, I've been mugged and viciously beaten." he pleaded.The two social workers turned and walked away.One remarked to her colleague, "You know the person that did this really needs help."
  • Một số bài viết về xã hội học
  • Gian nan đường hoàn lương
  • ĐẠO ĐỨC VÀ SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC
  • Tỉ lệ phụ nữ sử dụng ma túy đang tăng lên
  • Quỹ xã hội dân sự tài trợ Việt Nam thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao năng lực, vị thế, tiếng nói của những nhóm người dễ bị tổn thương (20/1/2009)
  • Tổng kết công tác bảo trợ xã hội năm 2008 và triển khai nhiệm vụ 2009 (18/1/2009)
  • 600 trẻ em lao động trong điều kiện độc hại
  • Lao động trẻ em - không ngẫu nhiên
  • Trung tâm đào tạo kỹ năng nghề NTT
  • Thư viện online - Sách hay
  • Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em tổng kết công tác năm 2008 (6/1/2009)
  • Cần một chiến lược tầm soát ung thư cổ tử cung trên toàn quốc
  • Bạo lực học đường vì thiếu hiểu biết!
  • Lao động trẻ em
  • Một số vấn đề về cơ sở bảo trợ xã hội
  • Vấn đề tái định cư: 8 mối rủi ro
  • Vì sao bộ mặt đô thị Việt Nam bị chắp vá?
  • Trang web mới về Tham vấn tâm lý
  • Hạnh phúc có thể... lây nhiễm
  • Cần tạo cho trẻ em môi trường học tập thân thiện, yêu thương, được tôn trọng (15/12/2008)
  • Những thống kê giật mình
  • Chương trình Ngày sáng tạo Việt Nam 2009:150.000 USD cho 10 đề án chống tham nhũng
  • The International Federation of Social Workers (IFSW)
  • 20th ASIA PACIFIC SOCIAL WORK CONFERENCE 2009 Date: 11 - 13 November 2009, Venue: Sky City Auckland Convention Centre, Auckland, New Zealand9
  • Top 10 điều khiến bạn dễ dàng thất bại
  • Hạnh phúc với chính mình
  • Sẽ sớm trình Chính phủ dự thảo Luật Người khuyết tật (04/12/2008)
  • Hít keo - thú chơi chết người
  • Phải điều trị cả người bạo hành!
  • Trò chơi cóc nhảy
  • Video clip "J'espere" do CS Phạm Quỳnh Anh hát cùng với CS LaVoine

Tình làng nghĩa xóm

Tình làng nghĩa xóm

Một cặp vợ chồng lấy nhau đã lâu mà vẫn chưa có con. Người chồng bèn hỏi ý kiến người hàng xóm có bảy con ở tầng trên.
- Dễ thôi! - Ông hàng xóm đáp - Nếu anh làm đúng như tôi bảo, mọi việc sẽ ổn cả. Trước tiên, anh hãy đi mua một lọ dầu tắm hảo hạng, một lọ nước hoa và một cái chổi cán dài. Sau đó, anh bảo vợ tắm rửa sạch sẽ rồi xức nước hoa thật thơm.
- Thế còn cái chổi cán dài để làm gì? - Người chồng hỏi.
- Khi vợ anh đã sạch sẽ thơm tho, anh lấy cán chổi gõ gõ lên trần nhà, tôi sẽ xuống ngay!

Hai người láng giềng nói chuyện với nhau:
- Rất tiếc là mấy con gà nhà tôi đã mổ sạch số hạt hoa vừa gieo bên vườn nhà bác.
Người kia đáp:
- Chuyện vặt ấy mà. Con chó nhà tôi đã cắn chết mấy con gà của nhà ông.
- Không sao. Vợ tôi đã chẹt chết con chó nhà bác bằng ôtô.
- Tôi biết rồi, vì chính tôi đã chọc thủng lốp xe của bà nhà.
- Thế à! Tiện đây tôi hỏi, nhà bác mua bảo hiểm hỏa hoạn chưa?

Bí quyết thành công của một công ty

* Xin ông cho biết bí quyết dẫn đến thành công hiện nay của công ty?
* Chỉ trong ba từ thôi
* Ba từ gì, thưa ông?
* Quyết định đúng
* Phải làm gì để có quyết định đúng, thưa ông?
* Trong hai từ thôi.
* Xin cụ thể hơn ạ.
* Kinh nghiệm
* Vậy làm cách nào để có những kinh nghiệm ấy?
* Chỉ trong ba từ thôi.
* Ba từ nào ạ?
* Quyết định sai.
L.Y.T. (st)

Hoan nghênh các bạn ở Hànội

Số người truy cập vào trang blog CTXH này phần lớn đều ở Hà nội. Như vậy có nghĩa là Hà nội quan tâm nhiều hơn các nơi khác về CTXH chuyên nghiệp. Nếu các bạn là sinh viên thì tôi có thể kết luận là sinh viên Hà nội ham học và tham khảo tài liệu nhiều hơn các nơi khác. Không biết các bạn sinh viên ở TP. HCM có suy nghĩ gì không. Số người ở TP. HCM truy cập vào trang blog này chỉ bằng 1-2/10 số người ở Hà nội. Hình như các bạn ở TP. HCM chỉ bằng lòng với những gì được giảng dạy trong lớp.
Các bạn ở Hà nội thật là đáng quý.

Chuyện vui

Bò bị bệnh điên
Một cô gái kỹ sư nông nghiệp về chăn nuôi đến một trang trại nuôi bò nghiên cứu về lý do bò tại đây bị bệnh điên. Sau khi khảo sát tình hình chăn nuôi tại trang trại, cô gái hỏi người chủ trang trại là ông nuôi như thế nào mà bò bị bệnh điên vậy. Ông chủ trả lời :" Tôi nuôi đúng phương pháp: Mỗi ngày cho ăn cỏ 3 lần, cỏ sạch, và vắt sữa một lần trong ngày. Một năm tôi cho mới lai giống một lần.". Sau khi nghe ông chủ trình bày cô gái nói:" Ông nuôi như vậy thì đúng quá rồi, sao bò lại bị điên?". Ông chủ suy nghĩ một hồi bèn nói với cô gái:" Mỗi ngày bò bị bóp vú vắt sữa mà phải chờ một năm mới được cho lai giống thì thử hỏi cô làm sao bò không điên được."
Thế là cô gái kỹ sư chăn nuôi đã tìm ra lý do bò điên và thầm nghĩ nếu cô cũng như vậy thì điên là cái chắc!
  • Sơ đồ tư duy về vấn đề nóng lên toàn cầu
  • Nguy cơ tái nghiện cao
  • Những bài học về quản lý
  • Hội thảo Giới thiệu tài liệu việc làm và dạy nghề cho người khuyết tật (04/11/2008)
  • Tập huấn về “Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” (06/11/2008
  • Trăn trở của người làm công tác cai nghiện
  • Tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS (04/11/2008
  • LÀM VIỆC VỚI CÁC TRƯỜNG HỢP TỰ TỬ (1)
  • QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THÂN CHỦ TRONG THAM VẤN
  • Hội thảo tham vấn Chương trình có thời hạn về lao động trẻ em (31/10/2008)
  • Tái hòa nhập sau cai nghiện: Cánh cửa chỉ mới hé mở
  • Cô giáo và đứa học trò bị nhiễm HIV
  • Mối quan hệ hỗ trợ
  • Khi người cai nghiện hồi gia
  • Cần những dịch vụ chuyên nghiệp cho người nghèo
  • Tăng trưởng “vì người nghèo”:World Bank và “câu chuyện thành công”của Việt Nam
  • Trang web về CTXH, PTCĐ, Tâm lý xã hội, tham vấn tâm lý...
  • Phương pháp nghiên cứu định tính
  • Bạo hành gia đình
  • Tư vấn nghề nghiệp
  • Phát triển guồn nhân lực
  • Năm 2009 nâng mức chuẩn nghèo quốc gia
  • Toạ đàm Báo chí nhân Ngày Thế giới xoá đói nghèo và Ngày Vì người nghèo Việt Nam 17/10
  • Cứ 28 giờ lại có một ca tự tử!

Các danh mục

  • An sinh xã hội (15)
  • Ảnh (6)
  • Ảnh vui (1)
  • Biến đổi khí hậu (1)
  • Chất lượng đào tạo (1)
  • Chính sách (4)
  • Chúc mừng năm mới (1)
  • Chuyên đề (1)
  • Công bằng xã hội (1)
  • công tác xã hội (56)
  • Công tác xã hội cá nhân (13)
  • Công tác xã hội nhóm (7)
  • công tác xã hội tại trường học (1)
  • Công tác xã hội tại xí nghiệp (1)
  • Công tác xã hội với người khuyết tật (2)
  • công tác xã hội với trẻ em (3)
  • CTXH và Y tế (1)
  • Dân trí (1)
  • Đánh giá dự án (2)
  • Định hướng nghề CTXH (1)
  • GDSK (1)
  • Gia đình (3)
  • Giảng dạy (1)
  • Giáo dục (1)
  • Giao tiếp (4)
  • Giới và phát triển (9)
  • Góc ý kiến (1)
  • Hành vi (4)
  • Hệ thống sinh thái (1)
  • Hệ thống sinh thái và vai trò (1)
  • Hình thành nhân cách (2)
  • HIV/AIDS (4)
  • Học bổng (1)
  • kiểm huấn CTXH (3)
  • Kinh nghiệm học hỏi (2)
  • Kỹ năng lắng nghe (9)
  • Kỹ năng mềm (1)
  • Kỹ năng sống (2)
  • Luật cân bằng (1)
  • Môi trường làm việc (1)
  • Năng động nhóm (2)
  • Nghệ thuật nói trước đám đông (1)
  • Nghệ thuật sống (2)
  • Nghiên cứu (1)
  • Nghiên cứu khoa học (2)
  • Nghiện ma tuý (3)
  • Nhân viên xã hội chuyên nghiệp (5)
  • Phát triển cộng đồng (40)
  • Quản lý đô thị (1)
  • Suy ngẫm (1)
  • Sức khoẻ (2)
  • Sức khoẻ Tâm thần (3)
  • Tâm lý (6)
  • Tâm lý trị liệu (7)
  • Tham gia (1)
  • Tham khảo ý kiến. (1)
  • Tham vấn tâm lý (11)
  • Thực tập (2)
  • Tiếp cận (1)
  • Tin tức (6)
  • Trắc nghiệm (1)
  • trẻ em (9)
  • Trẻ khuyết tật (2)
  • Trí tuệ cảm xúc (1)
  • Trí tuệ và cảm xúc (1)
  • Trợ giúp (1)
  • truyền thông (4)
  • Tư duy (3)
  • Văn hoá VN (1)
  • Vấn đề xã hội (24)
  • Xã hội học (3)
  • Xã hội học gia đình (1)
  • Xã hội học và CTXH (1)
  • Xoá đói giảm nghèo (8)
  • Ý kiến (9)

Ly nước của bạn

Ly nước của bạn

Ly nước của bạn

Khi bạn rời nơi làm việc hôm nay.
Học từ câu chuyện nhỏ này, hy vọng nó sẽ cho bạn một sự thay đổi lớn nơi chính bản thân bạn.
Giáo sứ bắt đầu lớp học của Thầy bằng cách cầm một ly nước có ít nước trong đó và giơ lên.
Thầy nâng lên cho tất cả các học sinh đều thấy và hỏi.
“Các bạn nghĩ ly nước này nặng bao nhiêu?”
'50gr!' .... '100gr!' .....'125gr'
..từng học sinh trả lời.
“Thầy thực sự không biết bao nhiêu trừ khi Thầy cân nó,” , Thầy nói “Nhưng câu hỏi của Thầy là:
Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cầm giơ lên như thế này trong vài phút?”
Các học sinh trả lời “chẳng có gì cả”
Thầy hỏi tiếp: “Oh và điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cầm giơ lên như thế này trong một giờ đồng hồ?'
Một học sinh trả lời: ‘Tay của Thầy sẽ bị đau nhức”
“Em nói đúng, và điều gì sẽ xảy ra nếu Thầy cầm giơ lên như thế này trong một ngày?”
“Tay cuả Thầy sẽ bị tê, có thể bị liệt, cơ bắp tay mệt mỏi và chắc chắn sẽ phải vào bệnh viện”
….. Giọng nói mạnh mẽ tinh nghịch của đưá học trò làm cả lớp cười ầm lên.
“Rất tốt.
Nhưng cầm ly nước này trong mấy phút, một giờ và cả ngày, sức nặng của ly nước này có thay đổi không? Thầy hỏi
-No.
“Vậy đâu là nguyên nhân làm cho mỏi mệt/ tê liệt cánh tay?”
Tất cả học sinh lúng túng.
Thầy hỏi tiếp: “Thầy có thể làm gì để vượt qua khỏi cơn đau này?”
“Đặt ly nước xuống!” một trong các học sinh trả lời.
“Rất đúng!” Thầy khen.
Những vấn đề khó khăn trong cuộc sống của chúng ta cũng giống như thế.
Giữ nó chỉ một vài phút trong đầu bạn và dường như nó chẳng có vấn đề gì.
Suy nghĩ lâu về nó, nó bắt đầu đau nhức.
Cầm giữ nó lâu hơn, nó sẽ làm tê liệt bạn, và bạn không có khả năng để làm gì cả.
Điều quan trong là nghĩ về những thách thức, vấn nạn trong cuộc sống của chúng ta, nhưng ĐIỀU QUAN TRỌNG HƠN là “HÃY ĐẶT NÓ XUỐNG” vào mỗi buổi chiều tối trước khi bạn đi ngủ.

Như thế bạn sẽ không bị căng thẳng, bạn sẽ thức dậy với cơ thể khoẻ mạnh, tinh thần minh mẫn, và bạn có thể vượt qua được bất cứ khó khăn nào đến với bạn
Vì thế, khi bạn rời công sở, nơi làm việc,
Xin nhớ
“BỎ LY NƯỚC XUỐNG NGÀY HÔM NAY! “

Nhân ngày Quốc tế "Người cao tuổi"

Hiện nay dân số Việt Nam đã lên tới 86,5 triệu người (2008), đứng thứ 13 trên thế giới về đông dân. Mật độ dân cư của VN lên tới 227 người/km2, cao gấp 5 lần so với trung bình của thế giới.
Tỷ lệ người cao tuổi (69 tuổi trở lên) hiện chiếm khoảng 9%, sẽ tăng nhanh, do sự già hóa của thế hệ sau cách mạng tháng Tám và mức sinh giảm, đạt tới mức thay thế.
Mặc dù tuổi thọ bình quân của nước ta đạt khá cao là 71, 3 tuổi nhưng theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới thì tuổi thọ khỏe mạnh lại rất thấp, chỉ đạt 58,2 tuổi và xếp thứ 116/174 nước.

Cuộc thi những ý tưởng thay đổi thế giới, tổng giải thưởng 10 triệu USD

  • Cuộc thi những ý tưởng thay đổi thế giới, tổng giải thưởng 10 triệu USD

Tình hình nhiễm HIV/AIDS trong toàn quốc từ ngày 01 tháng 5 năm 2008 đến ngày 30 tháng 6 năm 2008

1. Tình hình nhiễm HIV/AIDS trong toàn quốc từ ngày 01 tháng 5 năm 2008 đến ngày 30 tháng 6 năm 2008 như sau:
Số trường hợp nhiễm HIV báo cáo trong tháng: 4.775
Số bệnh nhân AIDS báo cáo trong tháng: 1.283
Số bệnh nhân AIDS tử vong báo cáo trong tháng: 789
Số trường hợp nhiễm HIV báo cáo trong năm:9.904
Số bệnh nhân AIDS báo cáo trong năm: 2.837
Số bệnh nhân AIDS tử vong báo cáo trong năm: 1.646
2. Tổng hợp đến ngày 30/6/2008, trên toàn quốc có:
Tổng số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống: 129.715
Tổng số bệnh nhân AIDS hiện còn sống: 26.840
Tổng số người nhiễm HIV đã tử vong: 39.664
Theo vaac.org

Love

Love is...
L = Lake of Sorrows
O = Ocean of Tears
V = Valley of Death
E = End of Life

Don't do it!!!

  • Hỏi đáp về tham vấn tâm lý
  • Dự án phòng chống HIV/AIDS dành cho thanh thiếu niên

Giá trị cuộc sống

  • http://giatricuocsong.org/

VN quan tâm giảm thiểu tác hại của HIV/AIDS

Hà Nội (TTXVN) - Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng và đã luật hoá quy định về can thiệp giảm tác hại của HIV, Cục phòng chống HIV/AIDS Nguyễn Thanh Long khẳng định tại Hội thảo về Hoạt động tiếp cận cộng đồng trong dự phòng lây nhiễm HIV, ngày 23/6.

Hội thảo do Cục Phòng Chống HIV phối hợp với Chương trình Cứu trợ HIV/AIDS khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR) tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 23 và 24/6.

Theo ông Nguyễn Thanh Long, Việt Nam đã thực hiện nhiều chương trình để can thiệp giảm tác hại của HIV như điều trị bằng methadone, phát bơm kim tiêm, bao cao su miễn phí. Số lượng các đối tượng thuộc nhóm nguy cơ cao như người nghiện ma tuý, gái mại dâm được phát dụng cụ phòng lây nhiễm ngày càng nhiều. Chương trình điều trị bằng methadone cũng được triển khai có hiệu quả ở một số địa phương.

Ngoài ra, việc tiếp cận đối tượng để truyền thông nhằm thay đổi hành vi cũng được các cơ quan chức năng Việt Nam coi trọng trong nỗ lực giảm thiểu tác hại của HIV. Cả nước hiện có 1.500 giáo dục viên đồng đẳng và 2500 giáo dục viên sức khoẻ, góp phần quan trọng vào việc truyền thông và chăm sóc điều trị bệnh nhân HIV/AIDS.

Tham luận của các chuyên gia Hoa Kỳ tại hội thảo cũng đưa ra các khuyến nghị liên quan đến việc nâng cao hiệu quả của khâu tiếp cận cộng đồng như tăng cường đào tạo kiến thức về dự phòng và điều trị HIV, mở rộng chương trình tới các địa bàn trên cả nước để đảm bảo đến được tất cả các đối tượng có nguy cơ cao.

PEPFAR được ký kết tháng 6/2006 với mục tiêu hỗ trợ các chương trình dự phòng, điều trị và chăm sóc HIV/AIDS tại Việt Nam thông qua việc cung cấp một khoản kinh phí hàng năm và hỗ trợ trực tiếp việc triển khai các chương trình này.

Tính đến hết quý 1 năm nay, Việt Nam có 124.000 người nhiễm HIV, trong đó có khoảng 26.000 người đã chuyển sang AIDS. Gần 39.000 người khác đã tử vong vì căn bệnh AIDS./.

Hướng dẫn về lắng nghe

Hãy thư giãn và lắng nghe. Nói là việc của thân chủ.
1. Dành thời gian. Thân chủ cần thời gian để diễn đạt.
2. Tập trung. Chúng ta phải lắng nghe mà không có những suy nghĩ, thành kiến và kỳ vọng sẵn có nào.
3. Cảm thông. Lắng nghe với một ít tưởng tượng.
4. Đặt câu hỏi thích hợp. Tránh câu hỏi đóng và có vẻ chất vấn.
5. Ngồi đối diện với thân chủ
6. Tránh bị chi phối
7. Tập trung vào ý chính và mối quan tâm của thân chủ
8. Tìm cách làm sáng tỏ, càng thường xuyên càng tốt.
9. Tránh tranh luận
10. Nghe bằng lỗ tai thư ba. Chúng ta cần lắng nghe nội dung được nói như thế nào.
11. Tránh giả định. Đừng dán nhãn lên người khác. Cần lắng nghe điều được nói, không phải điều chúng ta nghĩ người kia đang nói.
12. Đáp ứng. Nen có sự phản hồi hỗ tương đưa người nói đến chỗ chia sẻ sâu hơn.
Theo Anthony Yeo

Các mục tiêu trong tiến trình giúp đỡ

Tiến trình giúp đỡ có những mục tiêu sau đây:
1. Tạo mối quan hệ
2. Giảm thiểu lo âu
3. Chấp nhận trách nhiệm
4. Xử lý vấn đề
5. Cải thiện ý thức về bản thân

Lợi ích của thân chủ khi được lắng nghe

Lắng nghe đem lại ích lợi cho thân chủ có nhu cầu trong nhiều phương diện:
1. Được lắng nghe khiến người ấy cảm thấy nhẹ nhõm. Trò chuyện với ai đó giúp người ấy như cất được điều đang đè nặng về mặt tình cảm.
2. Người ấy sẽ không cảm thấy cô độc với những vấn đề của mình. Thân chủ có nhu cầu có thể cảm thấy bị cô lập vì anh ta không thể hay không có cơ hội nói chuyện với ai cả.Anh ta xây bức tường xung quanh và cảm thấy không ai có thể hoặc sẽ chia với anh. Khi co được cơ hội nói, anh ta cảm thấy mình không còn cô đơn.
3. Khi lắng nghe chúng ta bày tỏ sự quan tâm.Chúng ta thường nghe than phiền rằng mọi người không quan tâm đủ để lắng nghe.Qua việc lắng nghe chúng ta truyền đạt sự chú ý và quan tâm của chúng ta đối với người kia. Thân chủ có nhu cầu cảm thấy chúng ta giúp đỡ chân tình và sẽ kềm chế những lời phê bình hay đề nghi cho đến khi chúng ta hiểu điều người đó muốn nói.
4. Người đó sẽ cảm thấy quan trọng khi được lắng nghe. Tôn trọng là từ được nhận thấy rõ nhất qua cách chúng ta lắng nghe ai đó đang có nhu cầu. Qua việc lắng nghe, chúng ta nói rằng người kia có điều gì đó có giá trị và quan trọng để chúng ta nghe.
5. Được phép thổ lộ sẽ tăng cường hiệu quả. Một người nói về những cảm nghĩ và vấn đề của mình có thể tin tưởng hơn vào cảm nhận của mình. Khi có cơ hội nói về ý nghĩ của mình, thì họ thấy tin tưởng rằng điều mình đã hoạch định là nên thực hiện và chúng ta ngạc nhiên là hầu hết những kế hoạch của họ đều là tích cực.
6. Người giúp đỡ bắt đầu tìm hiểu. Chúng ta không chỉ hiểu cảm xúc và thế giới của người kia mà còn bắt đầu hiểu vấn đề của anh ta nữa.
7. Lắng nghe mở cửa cho mối quan hệ. Mối quan hệ được phát triển thông qua đối thoại. Điều này lấp đi sự ngăn cách giữa chúng ta và người chúng ta giúp.
Anthony Yeo

Tham vấn tâm lý

  • http://thamvantamly.wordpress.com/

Thấu cảm

"Thấu cảm với người khác tức là cảm nhận như thể chúng ta chính là người đó. Đó là cảm nhận cảm nghĩ của người kia và nói rằng chúng ta muốn hiểu cách người đó cảm nhận. Chúng ta bước vào thế giới của thân chủ về mặt tình cảm và cố gắng hiểu thế giới cùng cảm xúc của anh ta và để nhìn chúng như cách anh ta nhìn. Chúng ta làm điều đó với ý thức mình vẫn là mình, không phải là thân chủ.
Khả năng kềm chế cảm xúc và không để chúng làm méo mó cách nhìn của chúng ta về người khác là một yếu tố quan trọng khác đối với sự thấu cảm. Đó là loại cởi mở nói với thân chủ rằng "Hãy cung cấp cho tôi đầy đủ về những gì anh đang trải qua ngay lúc này. Hãy kể thật chính xác và tôi muốn nghe câu chuyện qua cách anh kể."
Anthony Yeo

VERGIL

HỌ LÀM ĐƯỢC VÌ HỌ NGHĨ RẰNG HỌ LÀM ĐƯỢC

John Owen

"Tôi nghĩ mình biết tất cả; nhưng bây giờ thú thật rằng càng biết những gì mình tưởng biết, càng cảm thấy chẳng biết gì"

John McKnight :

"Làm thế nào bạn biết bạn cần gì nếu như bạn không biết bạn đang có cái gì?"

Tư vấn nghề nghiệp

  • http://tuvannghenghiep.blogspot.com/

Test khám phá bản thân

  • http://www.personalitypage.com/

Những mục tiêu giúp đỡ

1. Để tạo mối quan hệ hỗ trợ, chấp nhận và đồng cảm hầu giúp thân chủ cảm thấy thoải mái khi tìm kiếm sự giúp đỡ và không cảm thấy mình sai khi có vấn đề.
2. Để giảm thiểu mức độ lo âu của thân chủ, khi đương đầu với tình huống căng thẳng.
3. Để giúp thân chủ chấp nhận trách nhiệm đối với vấn đề của mình và xử lý.
4. Để giúp thân chủ thăm dò những phương thức khả dĩ nhằm xử lý vấn đề và trang bị để họ đương đầu với những vấn đề có thể gặp trong tương lai.
5. Để giúp tạo nên ý thức về giá trị, tầm quan trọng cùng sự an tâm để thân chủ có khả năng điều chỉnh và thích ứng hũu hiệu với cuộc sống hằng ngày của mình.
(Theo Anthony Yeo, "Bàn tay giúp đỡ")

10 cách xử lý không lành mạnh khi có vấn đề

1. Phủ nhận
2. Viện lý do
3. Đổ lỗi
4. Trốn chạy
5. Cảm thấy có trách nhiệm
6. Làm ngơ
7. Trút đổ
8. Trò chuyện
9. Suy nghĩ luẩn quẩn
10. Bị bệnh
( Theo Anthony Yeo, "Bàn tay giúp đỡ")

Những rào cản đối với việc lắng nghe hiệu quả

Những rào cản đó là:
* Khuynh hướng chỉ trích và đánh giá
* Quá bận tâm với những cảm nghĩ cá nhân
* Hiểu sai mục đích
* Thiếu tin cậy
* Quá bận tâm với điều mình phải nói
* Lắng nghe có chọn lọc
* Ngắt lời liên tục
* Đưa ra những lời bình giả tạo
* Thăm dò
* Xem nhẹ cảm xúc được bảy tỏ
* Giải thích
* Người nghe bị phân tâm
* Khó khăn truyền đạt

Giúp đỡ

"Giúp đỡ đòi hỏi chúng ta phải biết đặt câu hỏi đúng. Không phải là
Tôi có thể nói gì với thân chủ
Tôi có thể làm gì cho thân chủ mà là
Tôi có thể là người như thế nào đối với thân chủ"

Mối quan hệ nâng đỡ

Mối quan hệ nâng đỡ được xây dựng trên nhiều giả định khác nhau và tập trung vào việc giúp thân chủ tự giúp chính mình. Những giả định này có thể được tóm tắt như sau:
* Những người có vấn đề có giá trị nội tại và đang cần được cảm thấy mình có giá trị, an toàn và quan trọng.
* Mỗi một con người là độc nhất vô nhị và cần được đối xử như một cá thể riêng biệt
* Con người không hoàn toàn bị định đoạt bởi di truyền, môi trường, quá khứ hay bất kỳ ảnh hưởng nào. Con người là những hũu thể năng động.
* Về cơ bản, con người chịu trách nhiệm và có thể kiểm soát cũng như đưa ra quyết định trong việc giải quyết vấn đề.
* Vấn đề do nhiều nguyên nhân gây ra. Cảm xúc, suy nghĩ, hành vi có tương quan với nhau
* Người giúp đỡ có thể trở thành một gương mẫu cho người cần được giúp
* Giúp đỡ người khác bao gồm nhiều phương pháp khác nhau.
(Trích "Bàn tay giúp đỡ" của Anthony Yeo)

Người giúp đỡ

Người giúp đỡ phải là người:
* Biết cảm thông
* Nhạy bén
* Tế nhị
* Điềm tĩnh
* Có kiến thức
* Khoan dung
* Tự nguyện
* Chín chắn
* Nhiệt tình
* Đồng cảm
* Linh động trong phương pháp và thái độ
* Vũng vàng
* Cương quyết nhưng tử tế
* Hiểu biết
* Tình cảm ổn định
* Vô tư
* Không xét đoán
* Khiên nhường
Người giúp đỡ phải:
* Là người biết lắng nghe và tỏ ra thật sự chú ý lắng nghe
* Bảo đảm hành vi và thái độ mẫu mực
* Ham thích và sẵn sàng gặp mọi người
* Bảo đảm hành động đi đôi với lời nói
* Cho lời khuyên đúng đắn
* Sẵn sàng hy sinh thời gian
* Có khả năng thấy trước
* Tôn trọng người như một cá thể riêng biệt có giá trị nội tại
* Có kinh nghiệm với những khó khăn trong cuộc sống
* Có khả năng tôn trọng và giữ gìn quyền lợi của người khác mà không để lộ ra ngoài.
(Trích "Bàn Tay giúp đỡ" của Anthony Yeo)

Người giúp đỡ

Kỹ thuật không chữa lành được. Thành công là sự cân bằng cá nhân giữa lòng chân thành và động cơ của người được tư vấn, cùng với kỹ năng, sự sáng tạo và khả năng thích nghi của tư vấn viên
VÔ DANH

Chuyện cười một tí: Diễn xuất của ca sĩ

Ở phần giải lao trong cuộc thi "Ngôi sao mới nổi", hai giám khảo nói chuyện với nhau khá rôm rả về những thí sinh dự thi.
Vừa nhấp ngụm nước, người thứ nhất vội nói:
- Cô bé giọng khàn khàn hát cũng được, chỉ tội diễn xuất kém quá, ai lại cứ tới câu "... nơi đây ra đi bao nhiêu chàng trai”, lại cứ lấy tay chỉ luôn vào đùi mình mà gào lên...
Nghe đến đó, người kia liền nhận xét:
- Thế đã nhằm nhò gì, cô bé mặc váy ngắn mới tệ, gần kết thúc bài "Tan trường", nó quay một vòng làm váy tung lên rồi chỉ tay vào ban giám khảo và hét lên: "Đáng đời anh chưa, đáng đời anh chưa?..."

Tình hình học sinh bỏ học

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo ( CV số 4302/BGDĐT-VP gởi cho các Đại biểu Quốc hội khoá XII ngày 16-05-2008), đến thời điểm 31/3/2008, tổng số học sinh phổ thông bỏ học là 147.005/15.710.060 học sinh, chiếm 0,94%; trong đó học sinh cấp tiểu học bỏ học là 19.217/6.863.205 học sinh, chiếm 0,28%; học sinh THCS bỏ học là 66.205/5.794.236 học sinh, chiếm 1,14%; học sinh THPT bỏ học là 61.583/3.052.620 học sinh, chiếm 2,02%. Số lượng và tỉ lệ học sinh bỏ học học kì I các năm (thôi học phổ thông nhưng đi học bổ túc, học nghề, học TCCN, đi làm ở các khu công nghiệp, thôi học ở nhà không có việc làm thường xuyên, ...).

Học để làm gì?

UNESCO cách đây chưa lâu nói “học để biết” (learning to know), “học để làm” (learning to do), “học để khẳng định mình” (learning to be), “học để sống chung với người khác” (learning to be together), nay đã điều chỉnh “học để biết” thành “học để học cách học” (learning to learn), “học để khẳng định mình” thành “học để sáng tạo” (learning to create). Như vậy, ngày nay cách học được coi là quan trọng hơn nhiều “kiến thức” và “sáng tạo” trùm lên “học để khẳng định mình”.

"KHÔNG ĐỂ NGƯỜI NGHÈO CHỊU THIỆT THÒI MÃI..."

  • http://www.sdrc.com.vn/NewsDetails.aspx?id=1015

Người khuyết tật tại Việt Nam

Theo khảo sát của Cục Thống kê năm 2006 (đăng tháng 1-2008), tỉ lệ người khuyết tật chiếm 15,3% dân số cả nước, tức khoảng 13 triệu người.
Theo khảo sát của Bộ LĐ&TBXH (2007), đại đa số gia đình có con em khuyết tật sống rất nghèo khó: 32,5% sống dưới chuẩn nghèo (dưới 2 USD/ngày); 58% có cuộc sống tạm ổn; 65% sống trong những ngôi nhà bán kiên cố: 70% người khuyết tật đang ở độ tuổi lao động, nhưng chỉ có 30% người khuyết tật có thu nhập tương đối ổn định.
Về học vấn: 41,01% không biết chữ; 19,5% tốt nghiệp cấp II hoặc cấp III: 6,5% có chứng chỉ học nghề và ít hơn 0,1% đang học hoặc đã tốt nghiệp CĐ và ĐH.
Số liệu của Bộ GD-ĐT (2007) cho thấy chỉ có 25%, tức khoảng 230.000 trong số hơn 1 triệu trẻ khuyết tật được đi học.

9 kỹ năng mềm cơ bản

9 kỹ năng mềm cơ bản (Theo Sean Hawitt - Chuyên gia tư vấn nghề nghiệp - Every 2nd Thursday)
1. Có ý chí chiến thắng
2. Có tinh thần đồng đội
3. Giao tiếp hiệu quả
4. Tự tin
5. Mài giũa kỹ năng sáng tạo
6. Chấp nhận và học hỏi từ những lời phê bình.
7. Thúc đẩy bản thân và dẫn dắt người khác.
8. Đa nhiệm vụ và xác định trước những việc cần làm
9. Có cái nhìn tổng quan

Số hộ thiếu đói trong tháng 7 đã giảm 7,6% so với tháng 6 (8/8/2008)


Số hộ thiếu đói trong tháng 7 đã giảm 7,6% so với tháng 6 (8/8/2008)
Theo số liệu của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, từ đầu năm đến nay, cả nước có khoảng 94.500 hộ thiếu đói (chiếm 0,81% số hộ nông nghiệp), với trên 332.900 nhân khẩu (chiếm 0,65% tổng số nhân khẩu nông nghiệp). So với tháng 6-2008, số hộ thiếu đói trong tháng 7 đã giảm 7,6% và số nhân khẩu thiếu đói giảm 26,4% nhờ công tác trợ cấp cứu đói giáp hạt kịp thời, bà con nông dân cũng đã thu hoạch các cây trồng vụ đông xuân. Đến nay, Nhà nước cũng đã hỗ trợ khoảng 30.300 tấn lương thực cho đồng bào thiếu đói.Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn, năm nay tỷ lệ hộ nghèo, tái nghèo có thể gia tăng. Nhất là trong những tháng tới đây, khi vào mùa mưa bão, thời tiết diễn biến bất thường, các thiệt hại về thiên tai chưa thể lường trước, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và cây trồng chưa khốâng chế được hoàn toàn.
Theo Molisa

Thử Trí Thông Minh Của Bạn

  • http://www.vietpark.com/(abgu1w55dx215a55quuomc45)/vnpark/Default.aspx

Lời vàng ý ngọc

CHÚNG TA NÊN TRAO DỔI NHỮNG VẤN ĐỀ KHÓ KHĂN VỚI NHAU, VÌ HÌNH NHƯ AI CŨNG BIẾT CÁCH GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NGƯỜI KHÁC
Trần Hữu Ngọc (st)

CÁC MỤC ĐÍCH KHÁC NHAU CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM.

CÁC MỤC ĐÍCH KHÁC NHAU CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM.
1. Tạo điều kiện để truyền đạt bằng lời cảm xúc, ý kiến, và kinh nghiệm.
2. Phát triển tốt các mối quan hệ giữa nhóm viên.
3. Tăng cường sự gắn bó trong nhóm.
4. Tạo cơ hội để cống hiến cho người khác trong nhóm.
5. Phát triển và củng cố năng lực trong các kỹ năng xã hội khả dĩ giúp cho sự phát triển về mặt tâm sinh lý, văn hóa, lịch sử và ý thiếu tích cực về bản thân.
6. Kích thích các cuộc thảo luận có suy nghĩ để giải quyết vấn đề, dẫn đến sự hiểu biết bản thân, người khác và các tình huống.
7. Tăng cường khả năng ra và thực thi quyết định.
8. Giảm căng thẳng và thỏa mãn nhu cầu về sự thích thú, vui vẻ và sáng tạo.
9. Giúp nhân viên xã hội thẩm định tốt hơn nữa nhu cầu và tài nguyên nơi thân chủ.
10. Giúp nhân viên xã hội thẩm định tốt hơn nữa các mối tương tác trong nhóm như là một tổng thể.
11. Để sử dụng tốt hơn một số đáp ứng.
12. Thay đổi một số khía cạnh của môi trường.
(Northen. H (1988) Công tác xã hội với nhóm. Trang 78.9; M.Lynn và D.Nisivoccia, Fordham University-GSSS. trích và thích nghi)


Sự tác động của cảm xúc và suy nghĩ lên hành vi

Sự tác động của cảm xúc và suy nghĩ lên hành vi
Cảm xúc là sự thể hiện tình cảm. Con người thường khó thừa nhận và biểu lộ cảm xúc của mình đặc biệt là những người đang gặp khó khăn và đau khổ. Nhưng những cảm xúc không được biểu lộ, bị chôn dấu thì thường là động cơ tiềm ẩn sau những hành vi tiêu cực mang tính hủy hoại (như sử dụng ma túy, đánh nhau…Người ta chọn những hành vi này (có ý thức hoặc vô thức) để che dấu hoặc bộc lộ những tình cảm, cảm xúc dồn nén của mình như một cách để thoát khỏi sự đau đớn do các cảm xúc đó tạo ra ( Ví dụ minh họa : Trường hợp chôn dấu một chiếc hộp chứa chất độc trong đó và chôn nó xuống đất)
Tất cả cảm xúc - giận giữ, ghen tuông, đau khổ, cuồng si, nghi ngờ, mâu thuẩn trong tình cảm đều là một phần tự nhiên của sự trải nghiệm của con người
Suy nghĩ của con người tác động đáng kể lên hành vi và cảm xúc của họ. Đôi khi những ý nghĩ không tích cực có thể dẫn đến cảm xúc tiêu cực và do đó hành vi cũng tiêu cực (V.Long,1996). Nếu chúng ta nghĩ về bản thân một cách tồi tệ, chúng ta có thể trở nên chán nản và có thể có những hành động theo cách hủy diệt bản thân. Ngược lại, nếu chúng ta chán nản, chúng ta có thể bắt đầu nghĩ xấu về bản thân.
Hành vi của con người phần lớn bị hướng dẫn bởi suy nghĩ và cảm xúc.Theo Albert Ellis, lý thuyết này được mô tả theo khung hành vi ABC :
A : là sự kiện tác động (Activating event, antecedent), tạo cảm xúc, cảm nhận
B : là niềm tin (Belief), suy nghĩ chi phối phản ứng đối với sự kiện
C : là hậu quả (Consequence) của phản ứng
Ví dụ : A : Em H. bị mẹ mắng thường xuyên (sự kiện)
B : “Mẹ chỉ biết tìm ra những điều để mắng và chê bai em” (Niềm tin)
C : Em H. thất vọng và bò nhà ra đi.(Hậu quả - Hành vi).
Nguyễn Ngọc Lâm

CÁC KỸ NĂNG LÔI CUỐN THÂN CHỦ THAM GIA

CÁC KỸ NĂNG LÔI CUỐN THÂN CHỦ THAM GIA
1. Tạo nên một môi trường ân cần, tiếp thu và tôn trọng.
2. Nối liền mối liên hệ giữa dịch vụ cung ứng và tình trạng cá biệt của thân chủ, trình bày rõ ràng vai trò và chức năng của công tác xã hội.
3. Nhạy bén trả lời các thắc mắc của thân chủ về tổ chức cung ứng dịch vụ và bản chất của sự giúp đỡ này.
4. Thông cảm hưởng ứng những dấu hiệu và biểu hiện ngầm của sự đau khổ, bằng cách chấp nhận những cảm xúc, tôn trọng, ủng hộ lâu bền và tạo hy vọng. Biểu lộ sự quan tâm, lo lắng và chấp nhận con người đó (cho dù là hành vi có thể không được chấp nhận).
5. Nhận ra những hành vi không bằng lời bất đồng với lời giao tiếp và những nội dung mà họ ngụ ý, và xác nhận rõ ràng lại khi cần thiết.
6. Chế ngự những sự chống đối, mâu thuẫn ban đầu, khi mà dịch vụ bắt buộc, và chú ý những vấn đề tạo động cơ thúc đẩy.
7. Kiểm tra giá trị của những kỳ vọng và sự nhận thức của đối tượng mà chúng ta tạm đạt được trong giai đoạn chuẩn bị - đặc biệt là những điều có liên quan đến tuổi tác, giới tính, chủng tộc, sắc tộc, và giai cấp xã hội, cũng như những giả định dựa theo lý thuyết.
8. Khuyến khích tương tác giữa các thành viên trong gia đình hay trong nhóm, đảm bảo rằng mỗi người đều có cơ hội để tham gia.
9. Thảo luận những kinh nghiệm đã có trước đây với nhân viên xã hội hay những chuyên viên giúp đỡ khác và nếu những kinh nghiệm đó là xấu, xác định rõ cùng nhau bản chất của công tác, chia sẻ những kỳ vọng.v.v...

Vai trò đảm nhận

Vai trò đảm nhận
Mỗi người chúng ta đều có nhiều vai trò mà chúng ta đảm nhận trong cuộc sống. Đến lớp học, chúng ta đóng vai trò sinh viên, nhưng đến khi về nhà thì chúng ta đóng vai trò khác. Mỗi vai trò quy định những khuôn mẫu hành vi, nếu làm sai thì chúng ta sẽ chịu sự phê phán, trừng phạt của cộng đồng, xã hội.
Đó là xã hội qui ước về vai trò và con người thể hiện vai trò của mình như thế nào (đánh giá vai trò ). Sự thể hiện vai trò này tùy thuộc rất nhiều về ý thức, tức là suy nghĩ của con người về những gì người khác mong đợi ở mình. Đôi lúc lúc cũng có những rắc rối : ví dụ như khi người khác suy nghĩ là ta mong đợi ở họ điều A và họ cố gắng làm điều này, nhưng thật ra ta lại mong đợi ở họ điều khác (B).
Nếu con người lạc quan, yêu đời thì dễ dàng cởi mở để thay đổi vai trò của mình, đó sự linh hoạt về vai trò. Còn sự mơ hồ về vai trò là khi con người gặp trục trặc, có vấn đề vì họ mơ hồ về những điều mà họ đảm nhận.
Ta cũng có khi gặp tình trạng mâu thuẫn về vai trò khi những người thân của chúng ta mong muốn khác nhau đối với ta. Ta muốn là một sinh viên giỏi và một đứa con ngoan hiền, nhưng ta không làm được nên ta bỏ luôn. Khi có mâu thuẫn về vai trò thì có vài phương cách để giải quyết như :
- lờ đi hay trốn tránh
- dung hòa
- tránh, không làm gì hết
- từ bỏ vai trò của mình luôn.
Vai trò của ta cũng có lúc bị gián đoạn như khi ta rời khỏi gia đình đi xa một thời gian dài hay người lớn tuổi nghỉ hưu không còn làm gì nữa, họ đau buồn vì vai trò của họ bị gián đoạn. Nhưng khi cùng lúc chúng ta đóng hai vai trò ( như trường hợp người cha đi xa, người mẹ phải đóng cà hai vai, nếu người mẹ bị bệnh thì không thể chăm sóc cho con cái được, đó là áp lực về vai trò. Nếu trong cuộc sống có nhiều khó khăn thì ta tuyệt vọng, ta tự cô lập đối với người khác, ta bỏ học, ta thụ động buông trôi. Trường hợp này được gọi là sự co rút vai trò.
Nguyễn Ngọc Lâm

Teamwork

“Teamwork is the ability to work together toward a common vision. The ability to direct individual accomplishments toward organizational objectives. It is the fuel that allows common people to attain uncommon results.”
Andrew Carnegie

Money or life

A social worker is facing a mugger with a gun.
"Your money or your life!" says the mugger.
"I'm sorry," the social worker answers,
"I am a social worker, so I have no money and no life."

Bạn chân dài và môi ướt

Một ông khách chiều nào cũng vào cửa hàng ăn cùng con cò và con mèo. Dù ông ta uống gì và cho hai con kia ăn gì thì khi móc túi trả tiền, bao giờ cũng vừa đủ, không thừa, thiếu một xu.
Một hôm, chủ quán tò mò hỏi:

- Anh có mẹo gì đặc biệt hay sao mà không cần đếm vẫn biết trả đủ tiền?

- Chuyện dài và buồn lắm!

- Cách đây mấy năm, tôi nhặt được một cái chai, mở nút ra thì có một vị thần xuất hiện và cho tôi ba điều ước. Điều thứ nhất của tôi là luôn có đủ tiền trả cho các món chi tiêu...

- Anh quả là sáng suốt! Thế còn hai điều kia?

- Thì đấy, tôi ước có bạn chân dài và môi ướt...

Theo VnExpress

Nhân viên xã hội hỗ trợ người có vấn đề trong môi trường của họ

Nhân viên xã hội hỗ trợ người có vấn đề trong môi trường của họ

12 năng lực cốt lõi của Teamwork

1. Tầm nhìn và mục tiêu rõ ràng
2. Xây dựng niềm tin
3. Truyền thông giữa cá nhân và cá nhân với nhau thật tốt
4. Vai trò và trách nhiệm rõ ràng
5. Xây dựng cơ cấu hỗ trợ nhau
6. Tổ chức hiệu quả
7. Chuẩn mực cao và mong đợi rõ ràng
8. Liên kết và tận tuỵ
9. Suy nghĩ và tiên phong hành động
10. Khuyến khích suy nghĩ đổi mới
11. Quản lý xung đột hiệu quả
12. Phát triển và duy trì văn hoá đội nhóm

tổ chức bởi XpressMedia.vn

Muốn giảng dạy giỏi

Muốn giảng dạy giỏi phải có kỹ năng (kỹ năng về chuyên môn và kỹ năng giảng dạy), có kỹ năng rồi thì sẽ thành thạo (thành thạo về chuyên môn và thành thạo về phương pháp giảng dạy chủ động), thành thạo rồi mới đến mức nghệ thuật (nghệ thuật trong chuyên môn và nghệ thuật trong giảng dạy, tức biết biến hoá, linh hoạt trong mọi tình huống)

Vấn đề

Vấn đề (Problem)

Nguồn gốc cùa vấn đề là do:
1. Hệ thống (system ) : Tổ chức, môi trường sống, gia đình
2. Con người (people): Con người xung quanh ta - Bạn bè, người thân, đồng nghiệp,...
3. Cà hai yếu tố trên gộp lại.

5 phẩm chất của cá nhân

Năm phẩm chất của cá nhân:

1. Điều chỉnh ( Adjustment)
2. Năng lực xã hội ( Socialability)
3. Sụ cởi mở ( Openness)
4. Sự tán thành (Agreableness)
5. Sự tận tâm (Conscientiousness)

VUI MỘT TÍ

Có nữ lập trình viên viết một chương trình nhỏ. Cô đưa ra các tham số sau:
Đẹp trai = 1
Xấu trai = -1
Chung thuỷ = 2
Đa tình = -2
Nghèo = 3
Giàu = -3
Đã có vợ = 0
Và có được kết quả như sau:
Đẹp trai + Chung thuỷ = Nghèo
Chung thuỷ + Giàu = Xấu trai
Nghèo + Xấu trai = Chung thuỷ
Đẹp trai + Giàu = Đa tình
Đẹp trai + Chung thuỷ + Giàu = Đã có vợ

Theo Thegioi@ số 224

Giải cứu 160 phụ nữ, trẻ em bị buôn bán

Giải cứu 160 phụ nữ, trẻ em bị buôn bán
25/06/2008 -- 10:10 AM
Hà Nội (TTXVN) - Theo Ban chỉ đạo phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, trong 6 tháng đầu năm, cả nước đã khám phá 160 vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em, bắt 299 đối tượng phạm tội, giải cứu 160 nạn nhân.Lực lượng công an, biên phòng xác định trên toàn quốc có 49 tuyến, 182 địa bàn trọng điểm, xảy ra 193 vụ buôn bán phụ nữ trẻ em, với 359 đối tượng, lừa 429 nạn nhân.Nhìn chung, tình hình buôn bán phụ nữ trẻ em ra nước ngoài dưới nhiều hình thức vẫn diễn biến phức tạp, tính chất, quy mô và thủ đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi xảo quyệt, có tổ chức chặt chẽ và xuyên quốc gia./. (TTXVN)

Cơ hội và thử thách của ngành CTXH

Trước cơ hội và thử thách, nhân viên xã hội cần có sự can đảm, sự sáng tạo và trong sáng trong thực hành CTXH, luôn tìm hướng mới trong phương cách giải quyết vấn đề, không nên luôn đóng khung trong cách thức cũ kỹ, lạc hậu, cần thoát ra để nhìn vấn đề với một cách nhìn mới hơn để ngành CTXH ngày càng đa dạng và hiệu quả trong công tác tăng cường năng lực cho người bị thiệt thòi trong xã hội. Đừng vì quyền lực, ảnh hưởng hay lợi ích riêng tư mà làm cho thân chủ của chúng ta thất vọng, hãy vì thân chủ và vì lợi ích của chính họ.
Nguyễn Ngọc Lâm

GIỚI THIỆU MỘT ĐỊA CHỈ THỰC HIỆN VIỆC CHĂM SÓ SỨC KHỎE TRẺ EM MIỄN PHÍ.

GIỚI THIỆU MỘT ĐỊA CHỈ THỰC HIỆN VIỆC CHĂM SÓ SỨC KHỎE TRẺ EM (KHÁM, CHỮA BỆNH, TƯ VẤN CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE) MIỄN PHÍ.

PHÒNG KHÁM NỘI TỔNG QUÁT
Giấy phép họat động Số 4570/GCN.HN Y, do Sở Y Tế TP.HCM cấp.

Phòng Khám Nội Tổng Quát chuyên khám, điều trị các bệnh hay gặp ở trẻ em như tiêu chảy, cảm ho, viêm phổi, suy dinh dưỡng, các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, sốt phát ban…và các bệnh nội khoa khác ở trẻ em.
Ngòai ra phòng khám còn thực hiện truyền thông giáo dục sức khỏe các chuyên đề như chăm sóc sức khỏe trẻ em dưới 5 tuổi, làm mẹ an tòan, sức khỏe sinh sản cho trẻ em tuổi vị thành niên…
Đặc biệt khám và điều trị bệnh miễn phí cho trẻ nghèo trẻ em có hòan cảnh khó khăn, trẻ lang thang cơ nhỡ…
Đến với phòng khám các bà mẹ hòan tòan yên tâm ngòai việc trẻ được chăm sóc điều trị một cách tận tình, các bà mẹ còn được hướng dẫn cách chăm sóc em bé đúng cách và an tòan nhất.
Phòng khám do bác sĩ nhi khoa: Bác Sĩ Lê Thị Mỹ Trang, tốt nghiệp tại nước ngòai và có kinh nghiệm trên 20 năm làm việc trong các bệnh viện nhi và hướng dẫn đào tạo chuyên môn nhi khoa cho sinh viên y khoa phụ trách.
Mọi cá nhân và tổ chức có quan tâm tới sức khỏe trẻ em xin lien hệ địa chỉ:

70 LÊ VĨNH HÒA, PHƯỜNG PHÚ THỌ HÒA,
QUẬN TÂN PHÚ, TP.HỒ CHÍ MINH.
ĐIỆN THỌAI: 088611647; O983734707

Những niềm vui nhỏ

Biết tận hưởng những niềm vui nhỏ trong cuộc sống: đó là một trong những bí quyết của hạnh phúc. Người Nhật Bản thường kể câu chuyện như sau:Một người đàn ông nọ đi qua một cánh đồng, thình lình bị cọp đuổi... Anh ta chạy bán sống bán chết mà vẫn không tìm ra chỗ dung thân. Anh chạy mãi để rồi cuối cùng thấy mình đứng bên bờ vực thẳm. Phía sau lưng, con cọp vẫn không buông tha. Không còn biết làm gì nữa, người đàn ông phải lấy sức để đu lên một cành cây bắc qua vực thẳm. Nhìn xuống dưới thung lũng, anh ta lại thấy một con cọp khác cũng đang nằm chờ chực. Người đàn ông đáng thương chỉ còn niềm hy vọng duy nhất: đó là nằm chờ đợi cho đến khi hai thú vật mệt mỏi bỏ đi... Chờ đợi trong lo sợ vẫn là cực hình lớn lao nhất đối với con người. Giữa lúc anh ta đang phải chiến đấu với sợ hãi và mệt mỏi, thì tình cờ bỗng có hai con chuột bỗng từ đâu xuất hiện trên chính cành cây anh đang đu vào. Hai con vật bắt đầu gặm nhấm lớp vỏ xung quanh cành cây. Bình thường, chuột là một trong những loài thú mà anh gớm ghiếc nhất vì sự dơ bẩn của nó. Tiếng kêu của nó cũng là một âm thanh làm cho lỗ tai anh khó chịu. Thế nhưng, trong cơn sợ hãi tột cùng này, người đàn ông bỗng nhìn thấy hai con chuột thật đáng yêu. Những hàm răng mũm mĩm của chúng trông dễ thương làm sao! Tiếng kêu của hai con vật cũng trở thành một âm thanh êm dịu hơn tiếng gầm thét của hai con cọp. Giữa lúc anh đang theo dõi từng động tác của hai con chuột, thì một con chim bỗng từ đâu bay lại, thả rớt trên cành cây một trái dâu rừng. Anh đưa tay nhặt lấy trái dâu và thưởng thức hương vị ngọt ngào của trái rừng bỗng nên thơ đáng yêu lạ lùng... Bí quyết của hạnh phúc cũng chính là biết đón nhận những niềm vui nhỏ trong cuộc sống mỗi ngày. Có những ngày tù đày, chúng ta mới thấy được giá trị của hai chữ tự do. Có sống xa gia đình, chúng ta mới nhung nhớ những ngày sống bên những người thân. Có những lúc nằm quằn quại trên giường bệnh, chúng ta mới thấy được giá trị của sức khỏe... Cuộc sống của chúng ta tràn ngập những niềm vui nhỏ mà chỉ khi nào mất đi, chúng ta mới cảm thấy luyến tiếc.
Nguồn: Baihocthanhcong

Bài học về sự tự tin

Hôm ấy là ngày đầu tiên tôi học môn Toán với thầy Peter. Vừa vào lớp, thầy cho cả lớp làm bài kiểm tra đầu năm.Cả lớp ngạc nhiên khi thầy phát cho chúng tôi ba loại đề khác nhau rồi nói:- Đề thứ nhất gồm những câu hỏi vừa dễ và khó, nếu làm hết các em sẽ được 10 điểm. Đề thứ hai có số điểm cao nhất là 8 với những câu hỏi tương đối dễ. Đề thứ 3 có số điểm tối đa là 6 với những câu hỏi rất dễ. Các em được quyền chọn đề cho mình.Thầy chỉ cho làm bài trong 15 phút nên tôi đã chọn đề thứ 2 cho chắc ăn. Không chỉ tôi mà các bạn cùng lớp cũng thế, chẳng có ai chọn đề thứ nhất cả.Một tuần sau, thầy Peter phát bài kiểm tra ra. Cả lớp lại càng ngạc nhiên hơn khi biết ai chọn đề nào thì được tổng số điểm của đề đó, bất kể làm đúng hay sai. Lớp trưởng hỏi thầy:- Thưa thầy tại sao lại như thế?Thầy cười rồi nghiêm nghị trả lời:- Với bài kiểm tra nầy, thầy chỉ muốn thử thách sự tự tin của lớp mình. Ai trong số các em cũng mơ ước đạt được điểm 10 nhưng ít ai dám vượt qua thử thách để biến ước mơ ấy thành sự thật.Bài kiểm tra kỳ lạ ấy của thầy Peter đã dạy chúng tôi một bài học: "Có những việc thoạt nhìn tưởng như rất khó khăn nên dễ làm cho chúng ta rút lui ngay từ phút đầu tiên. Nhưng nếu không tự tin đối đầu với thử thách thì chúng ta chẳng biết khả năng của mình đến đâu và cũng khó vươn tới đỉnh điểm của thành công.
Nguồn: Baihocthanhcong

Phát triển bền vững ngành tài nguyên-môi trường

  • http://www.agenda21.monre.gov.vn/Default.aspx?tabid=395&ItemID=3810

Hướng dẫn tổ chức thực hiện và quản lý dự án

  • http://www.haiphongdofa.gov.vn/vn/index.asp?menuid=459&parent_menuid=433&fuseaction=2

Một số xử lý thống kê thông dụng trong SPSS

  • http://www.vocw.edu.vn/content/m11028/latest/

Chuyện vui

* - Bố ơi, sinh học là gì?
- Ừ... biết nói thế nào cho con hiểu đây. À... ví dụ con giống bố, đó là sinh học.
- Thế xã hội học là gì?
- Là... là... thằng bé nhà bên cũng rất giống bố.

Chuyện vui

Xui xẻo đủ đường
Một người đàn ông với vẻ mặt buồn bã đang ngồi trong quán bar. Ông ta nhìn vào ly rượu trước mặt suốt nửa tiếng đồng hồ như muốn tự đắm mình trong cái ly.Một thanh niên bước vào quán, đến ngồi bên cạnh người đàn ông, vỗ mạnh vào lưng ông, cầm ly rượu đặt trên bàn và uống cạn. Người đàn ông thấy vậy khóc òa...Anh thanh niên vội nói:- Thôi mà, ông đừng khóc nữa. Tôi chỉ muốn đùa thôi! Tôi sẽ gọi một ly khác cho ông...- Không phải tôi khóc vì chuyện này - Người đàn ông giải thích - Hôm nay là ngày tồi tệ nhất trong đời tôi. Buổi sáng, tôi đã thức dậy muộn và đi làm trễ. Sếp nổi giận và cho tôi nghỉ việc. Khi ra khỏi văn phòng, tôi phát hiện chiếc xe của mình đã bị đánh cắp. Cảnh sát cho biết không thể làm gì và tôi sẽ không bao giờ tìm lại được chiếc xe... Sau đó tôi đã đón taxi để về nhà, nhưng khi ra khỏi xe, tôi lại bỏ quên chiếc ví trên ghế nệm và xe đã chạy mất. Lúc bước vào nhà, tôi nhìn thấy vợ mình đang ở trên giường cùng với ông hàng xóm. Tôi ra khỏi nhà và quyết định kết liễu cuộc đời mình. Tôi vào quán bar này và khi định chết, thì anh đến và đã uống cạn ly rượu có chứa thuốc độc của tôi...

Biết vẽ thế nào?

Để hiểu học trò hơn, cô giáo bảo học sinh vẽ vào một tờ giấy mơ ước mai sau của mình. Khi cô xem, có em vẽ hình máy bay tỏ ý muốn làm phi công, em thì vẽ ống nghe muốn làm bác sĩ... Riêng một em gái để tờ giấy trắng nguyên, cô hỏi:- Chẳng lẽ lớn lên em không muốn làm gì cả sao?Em bé băn khoăn đáp:- Lớn lên em sẽ lấy chồng, nhưng chẳng biết nó hình gì?

Ảnh vui

Ảnh vui

Chuyện vui

Chuyện một
Một nàng hướng dẫn viên xinh đẹp dẫn một ông khách Mỹ đi tham quan Sài Gòn. Đi ngang nhà thờ Đức Bà, khách hỏi: "Chỗ này là gì vậy?". Nàng toát mồ hôi vì không biết Nhà thờ Đức Bà tiếng Anh là gì. Nàng trả lời đại: "Jesu die here". Nghe xong khách choáng váng. Lát sau đi ngang Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, ông khách hỏi: "Chỗ này là gì, sao đông người vậy?". Nàng trả lời: "America (chỉ vào ông khách) and Vietnam (chỉ vào mình) pằng pằng. People die here". Ông khách há hốc mồm: "Oh my God!". Cuối cùng đi ngang bệnh viện Từ Dũ: "Cô ơi, chỗ này là đâu vậy?". Nàng lại nhíu mày suy nghĩ: "Men - women, pằng pằng, Baby born here". Khách xỉu ngay.

Chuyện hai
Ông bố tắm chung với thằng con , phòng tắm trơn quá thằng ku bị trượt chân, nhưng may mà nhanh tay túm... của bố nó được nên không bị ngã .. Vừa đỡ thằng con, ông bố cười hềnh hệch : - May cho mày đấy . Hôm nay mà mày tắm với mẹ thì mày ngã vỡ đầu rồi con ạ ...

Slideshows by User: foreman

Đang tải...

Hơn 2 triệu người cao tuổi sống nghèo khổ

Hơn 2 triệu người cao tuổi sống nghèo khổ
Người già lao động kiếm sống. Ảnh: Hoàng Hà.
Hiện cả nước có hơn 7 triệu người cao tuổi (chiếm gần 9% dân số) nhưng 34% trong số này sống nghèo khó. Nhiều người bị tật nguyền, thương tật trong chiến tranh, cô đơn không nơi nương tựa...
Nhằm xã hội hóa việc chăm sóc, giúp đỡ người cao tuổi khó khăn, cô đơn không nơi nương tựa hòa nhập với cuộc sống, năm 2006, Thủ tướng đã cho phép Hội Người cao tuổi Việt Nam thành lập Quỹ chăm sóc Người cao tuổi.
Khánh Chi
Nguồn. Vnexpress (12/05/2008)

Khuyến khích cai nghiện tự nguyện và tại cộng đồng

Khuyến khích cai nghiện tự nguyện và tại cộng đồng
TT (TP.HCM) - "Dứt khoát phải đa dạng hình thức cai nghiện ma túy..." - tiến sĩ Hồ Bá Thâm, Viện Nghiên cứu xã hội TP.HCM, đã quả quyết như vậy tại chương trình Nói và làm (do HĐND TP.HCM và Đài truyền hình TP tổ chức trực tiếp trên kênh HTV9 sáng 1-6).
Ông Lê Hiếu Đằng - phó chủ tịch Ủy ban MTTQ VN TP.HCM - cho rằng nên tập trung bàn các biện pháp chống tái nghiện đối với hàng chục ngàn người đã, đang và sẽ trở về cộng đồng sau khi kết thúc giai đoạn sau cai nghiện. Theo ông Đằng, gia đình và cộng đồng vẫn là chiến trường lớn để chống lại tệ nạn xã hội rất nhức nhối này.
Bà Phạm Phương Thảo - chủ tịch HĐND TP - cho biết Quốc hội đang xem xét sửa đổi, bổ sung một số nội dung quan trọng của Luật phòng chống ma túy. Trong đó nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, đoàn thể... trong phòng chống ma túy.
QUỐC THANH
Nguồn: Tuồi Trẻ ngày 02/06/2008

People Skills

People Skills

PEOPLE SKILLS

Biển sớm mai

Biển sớm mai

Động đất tại Trung Quốc

Động đất tại Trung Quốc

Ngành công tác xã hội chuẩn bị gì?

Trước thảm hoạ lớn của nhân loại như động đất ở Trung Quốc hay bão Nargis ở Myamar, nếu xảy ra ở Việt Nam thì các nhân viên xã hội sẽ phải làm gì, làm như thế nào và ở những lãnh vực nào? Hiện nay các nhân viên xã hội chắc cũng đang ngẩng tò toe.
Nhanh lên, hỡi ngành công tác xã hội! Chúng ta phải chuẩn bị trước để đối phó và tham gia chứ!

"Sẽ là thảm họa quốc gia"

Giám đốc Công An Trần Bá Thiếu nói về việc đề nghị sửa luật, coi người nghiện ma túy là bệnh nhân chứ không phải người phạm tội cần trừng trị. (Vnn 16/05/2008)

Sapa trong sương mù (Ảnh Trần Việt Dũng)

Sapa trong sương mù (Ảnh Trần Việt Dũng)

4 ngọn nến

4 ngọn nến

4 ngọn nến

Nếu trái tim con người luôn cháy lên ngọn lửa hy vọng, chúng ta sẽ tìm được những điều tốt đẹp cho cuộc sống như tình yêu, niềm tin và hòa bình.Trong một căn phòng, không gian tĩnh lặng tới mức người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của những ngọn nến. Cây nến thứ nhất than vãn: "Ta là biểu tượng của Thái Bình, Hoà Thuận. Thế nhưng đời nay những cái đó thật chông vênh. Thế giới hiếm khi im tiếng gươm súng, người với người - thậm chí vợ chồng anh em trong một nhà cũng chẳng mấy khi không cãi cọ". Thế rồi ngọn nến leo lét, ngọn lửa mờ dần cho tới khi ánh sáng lụi tắt hoàn toàn. Ngọn nến thứ hai vừa lắc vừa kể lể: ''Ta là Niềm Tin. Thế nhưng trong thế giới này hình như ta trở nên thừa thãi, một món xa xỉ. Biết bao kẻ sống theo thời không cần tới niềm tin". Nói rồi ngọn nến từ từ, tắt tỏa ra một làn khói trắng luyến tiếc. ''Ta là Tình Yêu - ngọn nến thứ ba nói - Nhưng ta không còn đủ sức để tỏa sáng nữa. Người ta gạt ta ra một bên và không thèm hiểu giá trị của ta. Cứ nhìn thế giới mà xem, không thiếu kẻ quên luôn cả tình yêu đối với những người ruột thịt của mình''. Dứt lời phẫn nộ, ngọn nến vụt tắt.Căn phòng trở nên tối tăm. Chỉ còn một ngọn nến nằm ở góc xa vẫn tiếp tục phát ra ánh sáng, như ngôi sao đơn độc giữa bầu trời đêm âm u. Bất chợt một cô bé bước vào phòng. Thấy ba ngọn nến bị tắt, cô bé thốt lên: ''Tại sao các bạn không cháy nữa? Cuộc sống này luôn cần các bạn. Hòa Bình, Niềm Tin, Tình Yêu phải luôn tỏa sáng chứ''. Cây nến thứ tư nãy giờ vẫn lặng lẽ cháy trong góc phòng, đáp lời cô gái: ''Đừng lo. Tôi là Hy Vọng. Nếu tôi còn cháy, dù ngọn lửa rất mong manh, chúng ta vẫn có thể thắp sáng lại Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu''.Mắt cô bé sáng lên. Cô bé dùng cây nến thứ tư - Hy Vọng - thắp sáng trở lại các cây nến khác.

Sưu tầm Internet

Già hay quên

Già hay quên

Hai ông bà già ở với nhau đều có tính quên, buổi tối hôm đó đang ngồi xem tivi ông đứng lên đi vào bếp, bà nói: "ông ra nhớ mang cho tôi cái bánh rán, ông đừng quên đó".
Ông nói: "tôi chỉ vào ra ngay sao quên được".
Ông đi bà gọi lại: "tôi muốn ăn với chút mật ong, ông nhớ bánh rán và mật ong nhé".
Ông nói: "Được rồi, cứ nói mãi"
Bà lại gọi: "tôi muốn thêm ít đậu phọng nữa, ông có quên không, bánh rán mật ong và đậu phọng".
Ông nói: "tôi vào lấy ra ngay, quên gì mà quên, đừng nhắc nữa"
Lát sau ông ra mang ly sửa để trước mặt bà, bà nói: "đấy ông lại quên ổ bánh mì trứng rồi"

Lưu trữ Blog

  • ▼  2008 (330)
    • ►  tháng 2 (26)
    • ▼  tháng 3 (57)
      • Tổng kết Dự án “Xoá đói giảm nghèo thông qua tăng ...
      • Vấn đề nghèo đói ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
      • Sứ mệnh của nghề công tác xã hội và các cán bộ xã hội
      • Sự cần thiết phát triển nghề công tác xã hội ở nướ...
      • ĐÀO TẠO CÔNG TÁC XÃ HỘI
      • Học ngành công tác xã hội
      • Không có tiêu đề
      • Không có tiêu đề
      • Học bổng Fullbright tại Mỹ năm học 2009-2010
      • Tập huấn theo dõi và giám sát dự án tại cộng đồng
      • Không có tiêu đề
      • TÍNH BỀN VỮNG TRONG MỘT DỰ ÁN PHÁT TRIỂN
      • Một vài nhận xét và đề nghị về Tham vấn và Huấn lu...
      • Chương trình Hội thảo về tham vấn được đề nghị
      • BÀN VỀ KỸ NĂNG LẮNG NGHE
      • Học cách lắng nghe hiệu quả
      • Lắng nghe người dân: dễ hay khó?
      • Quỹ xã hội dân sự 2008, của Ngân hàng thế giới tại...
      • KHUYẾN NÔNG THÁI NGUYÊN VỚI SỰ THAM GIA CỦA NÔNG DÂN
      • NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG VỀ HẠNH PHÚC VÀ CHỈ SỐ HẠNH ...
      • CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH
      • Phụ nữ với vấn đề Phát triển cộng đồng
      • Truyền Thông Thay Đổi Hành Vi Thông Qua Các Hình T...
      • Kỹ năng sống
      • Đánh nhau bằng gậy
      • KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ GDSK
      • TÌNH HÌNH GIỚI Ở VIỆT NAM DƯỚI ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC TỔ...
      • BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP - NHỮNG VẤN ...
      • Công tác xã hội. Một ngành một nghề chuyên môn
      • Khi công dân thiếu các phẩm chất nhân văn
      • Cảnh báo về sức khỏe tâm thần thanh thiếu niên
      • các quy điều đạo đức của Nhân viên xã hội
      • Các qui điều đạo đức của nhân viên xã hội:
      • TÂM LÝ BỆNH HỌC VỀ NGHIỆN MA TÚY Ở TUỔI THIẾU NIÊN
      • Tìm hiểu về sức mạnh của thân chủ
      • LẮNG NGHE
      • Vai trò và các kỹ năng của nhân viên xã hội trong ...
      • Ngân hàng ký ức
      • AN SINH XÃ HỘI
      • Nhân viên xã hội
      • Công tác xã hội thực hành
      • PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NHÓM
      • KỸ NĂNG THÚC ĐẨY SỰ THAY ĐỔI TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI
      • Công tác xã hội thực hành ngày nay quan tâm đến cá...
      • Coomunity Development process
      • Community Development Problem solving Process
      • A healthy community
      • Social Work employment areas in Ireland 2001
      • Mục đích của CTXH và vai trò NVXH
      • Một Cộng đồng đi lên từ nhóm nhỏ
      • Nhân viên xã hội và năm con chuột
      • TĂNG QUYỀN LỰC TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN...
      • QUAN HỆ GIỚI
      • Thông cảm và nghe thấu cảm
      • Emotional Intelligence - Thông Minh Xúc Cảm trong ...
      • Giới thiệu kỹ thuật tư duy 5W1H
      • Học cách Tư duy tích cực
    • ►  tháng 4 (50)
    • ►  tháng 5 (55)
    • ►  tháng 6 (67)
    • ►  tháng 7 (22)
    • ►  tháng 8 (12)
    • ►  tháng 9 (16)
    • ►  tháng 10 (9)
    • ►  tháng 11 (7)
    • ►  tháng 12 (9)
  • ►  2009 (29)
    • ►  tháng 1 (2)
    • ►  tháng 2 (3)
    • ►  tháng 3 (1)
    • ►  tháng 4 (3)
    • ►  tháng 5 (7)
    • ►  tháng 6 (1)
    • ►  tháng 10 (6)
    • ►  tháng 12 (6)
  • ►  2010 (5)
    • ►  tháng 9 (5)
  • ►  2011 (13)
    • ►  tháng 7 (7)
    • ►  tháng 9 (6)
  • ►  2012 (28)
    • ►  tháng 2 (1)
    • ►  tháng 3 (6)
    • ►  tháng 4 (3)
    • ►  tháng 5 (1)
    • ►  tháng 7 (17)

TS Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL

MỖI NĂM MẤT 70.000 ha ĐẤT NÔNG NGHIỆP
SCIENCE - ETHICS = MURDER
EMOTIONS - LOGIC = FAITH
LIFE - DREAMS = JOB

Tại sao con người có cảm xúc tiêu cực?

Cả tuần qua bạn chìm ngập trong các loại cảm xúc hỗn độn. Bạn buồn, bạn giận dữ, bạn vui, bạn lo lắng... Cuối mỗi ngày, bạn mệt mỏi cả về thể xác và tinh thần vì những thứ diễn ra trong đầu. Nhà tâm lý theo thuyết tiến hóa Randolph Nesse (Đại học Michigan, Mỹ) cho rằng thực tế đó là sự thích nghi có chọn lọc của tự nhiên để đối phó với từng tình huống cụ thể.
Thật dễ để hiểu khi ta có cảm xúc tích cực. Con người hạnh phúc sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn và tạo nên những đôi hạnh phúc hơn. Những cảm xúc tích cực khác như tình yêu và sự gắn kết còn thiết yếu để nuôi dạy con cái.
Nhưng tình cảm luôn đi trọn gói, bạn phải đón nhận cái tốt cùng cái xấu, tình yêu phải đi cùng với thù ghét và hạnh phúc luôn song hành với buồn bã.
Nhà tâm lý tiến hóa Randolph Nesse tại Đại học Michigan, Mỹ, cho rằng những cảm xúc đơn lẻ đó thực tế là sự thích nghi có chọn lọc của tự nhiên để đối phó với từng tình huống cụ thể.
Nesse gọi cảm xúc như một phần mềm của trí óc. Khi đối mặt với tình huống buồn, bộ não sẽ đưa tới chương trình buồn bã để ứng phó, và khi tình hình tốt đẹp hơn, bộ não sẽ nhảy sang chương trình vui vẻ.
Với Nesse, nó không hẳn chỉ liên quan đến từng cảm xúc hay từng từng huống, bởi rất nhiều cảm xúc có hiệu ứng tâm sinh lý tương tự nhau. Khi đối mặt với một tình huống, các cảm giác của chúng ta trỗi lên, và bất cứ cảm xúc nào cũng có thể khiến cơ thể cảnh giác, tự vệ, thay đổi mô hình hay động cơ hành động. Điều quan trọng không phải là tên của cảm xúc mà là cơ thể và trí óc làm gì với nó.
Điều cốt yếu là qua thời gian tiến hóa, những cảm xúc này đã giúp con người sống sót, thúc đẩy họ phối giống và nuôi dưỡng con cái. Những cảm xúc này đã gắn sâu vào trong não, cho dù chúng ta có thích hay không.
Và bởi loài người về cơ bản là động vật có tính xã hội, chúng ta có những cảm xúc xã hội gắn sâu vào bản chất. Chúng ta là động vật nên ở một nghĩa sâu xa nào đó chúng ta cần phải dựa vào nhau để sống sót. Vì vậy, con người không chỉ có tình cảm cá nhân, chúng ta có những cảm xúc bị tác động bởi hành vi và cảm xúc của người khác.
"Nếu bạn định làm gì đó khiến người khác giận dữ, bạn sẽ cảm thấy tội lỗi", Nesse nói. Đó là lý do vì sao chúng ta có thể tin tưởng người khác và cũng có thể cảm thấy bị phản bội.
Thực tế là nếu không có những cảm xúc xã hội phức tạp đó, con người sẽ vẫn lẩn sâu trong các khu rừng, sống đơn độc trên các cành cây. Và theo Nesse, mọi cảm xúc đều tốt, theo nghĩa tiến hóa. Chúng có mặt để giúp đỡ chúng ta, mang lại hy vọng. Kể cả khi chìm trong buồn bã thì bạn vẫn biết rằng niềm vui vẫn le lói đâu đó. Và chúng ta chỉ nhận ra hạnh phúc khi đã trải qua đau khổ.
M.T. (VE, theo Livescience)

THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI

* Người thành công biết chính xác những gì mình muốn, tin tưởng vào khả năng của mình và sẳn sàng cống hiến hết thời gian của cuộc đời để đạt được điều đó.
* Người thành công có khả năng ảnh hưởng đến những người xung quanh và hợp tác với họ trong thái độ thân thiện.
* Người thành công chỉ bày tỏ ý kiến về những điều mình biết và họ hòan toàn có thể thực hiện điều đó một cách rất khôn ngoan.
* Người thành công dung hòa quan hệ với tất cả mọi người mà không quan tâm đến lợi ích đạt được.
* Người thành công luôn trau dồi kiến thức và mở rộng lòng khoan dung. Họ sống hướng đến quyền lợi chung của cộng đồng.
* Người thành công theo kịp thời đại và xem đây là trách nhiệm quan trọng để biết được điều gì đang diễn ra.
* Người thất bại không có mục đích cụ thể cho cuộc sống, luôn tin rằng mọi thành công đều là kết quả của vận may và chỉ thật sự bắt tay vào việc khi có sự tác động từ bên ngòai.
* Người thất bại tìm thấy khuyết điểm của mình ở người khác.
* Người thất bại phát biểu ý kiến về mọi vấn đề mà họ chỉ biết chút ít hoặc hoàn toàn không có một chút kiến thức gì về chúng.
* Người thất bại chỉ nuôi dưỡng quan hệ với những ai mà từ đó họ sẽ có những thứ mà họ muốn.
* Người thất bại có trí tuệ hạn chế, sự vị kỷ chiến thắng lòng vị tha. Vì vậy họ bị tách khỏi những cơ hội thuận lợi và mối quan hệ thân thiện với xã hội.
* Người thất bại chỉ quan tâm đến bản thân với những nhu cầu trước mắt và bất chấp mọi thứ để thực hiện, không cần biết đó là điều tốt hay xấu.

NHỮNG VIÊN GẠCH CỦA CUỘC SỐNG


Cách ðây khoảng 10 năm, có một nhà doanh nghiệp trẻ tuổi tên là Josh. Một ngày kia ông ðang ði trên một con ðường của thành phố Chicago trong chiếc xe Mercedes mới mua của mình. Ông vừa chạy vừa quan sát coi chừng những ðứa bé chạy xẹt vào giữa những chiếc xe hơi. Bất chợt ông trông thấy một cái gì ðó và chạy chậm lại. Ông nhận ra không có ðứa bé nào chạy qua cả, nhung một viên gạch ðă bay thẳng vào cánh cửa chiếc xe mới cáu của ông.
Ông vội thắng lại, các bánh xe cày một ðường trên ðất. Josh nhảy ra khỏi xe, chạy về hướng viên gạch ðă bay ra, chộp cổ một thằng bé và gí nó vào thành một chiếc xe hơi ðang ðậu gần ðó. Ông hét lớn : “ Mày ðang làm cái trò gì vậy ? Có biết chiếc xe này mới mua và mắc tiền không ?”
“ Con xin lỗi ông… Con xin lỗi ! - ðữa bé van nài – Con không biết phải làm gì bởi nếu con không chọi gạch sợ không có chiếc xe nào chịu dừng lại hết.”.
Nó ðưa tay chỉ về phía góc ðường, gương mặt nhòa lệ, nói :”Anh của con ði xuống vỉa hè và ngă ra khỏi xe lăn, con không thể nhắc anh dậy”. Ðúa bé khóc thút thít :”Xin ông làm ơn ðỡ anh của con dậy. Anh ấy ðang bị ðau và quá nặng ðối với con”.
Xúc ðộng không diễn tả nên lời, Josh ði theo ðứa bé và ðỡ người anh lên chiếc xe lăn. Rút chiếc khăn tay ra, ông lau những vềt xây xát ðang rĩ máu trên mặt anh của ðứa bé. Ðoạn ông nhìn thằng bé từ từ ðẩy anh nó ði về nhà.
Josh bước chầm chậm về chiếc Mercedes của mình. Ông không bao giờ sơn sửa lại vềt lõm trên cánh cửa xe. Nó nhắc nhở ông rằng không nên sống một lối sống mà người khác phải quăng gạch ðể khiến mình chú ý…
Cuộc sống luôn thì thầm nói chuyện với tâm hồn và tấm lòng của chúng ta. Ðôi lúc, khi chúng ta không có thời gian ðể lắng nghe thì cuộc sống buộc phải quăng một vài cục gạch. Chúng ta có hai lựa chọn : hoặc là lắng nghe những lời thì thầm của cuộc sống, hoặc là chờ ðợi những cục gạch sẽ bay ðến.

Man of the year

Man of the year

Chuyện vui có thật 100%

Giặt là
Trong một đợt tập huấn ở Hà Tiên của Hội Chữ Thập Đỏ VN tổ chức về phòng chống HIV/AIDS, có một ông BS người Bắc vào tập huấn bị bệnh tim, sáng hôm đó ông ấy mệt nên bảo mọi người đến lớp trước, ông ấy nằm nghỉ một lát sẽ đến sau.
Ông ta đang nằm thì người dọn phòng của Khách sạn vào, ông ấy nói : "Chị đem quần áo của tôi đi giặt là".
Chị kia nói :" là gì ?”.
Ông ấy nói: "đem đi giặt là"
Chị kia thắc mắc: “là gì?”
Thế là ông ta lên cơn đau tim phải đem đi cấp cứu. May là ông BS này đã được cứu sống!

Eros

Eros

LOVE AND PATIENCE

Ngày xửa ngày xưa, có một đôi nam nữ yêu nhau say đắm. Cô gái Hath rất xinh đẹp, thông minh và giàu có. Chàng trai Gimi nghèo khó, chẳng có gì ngoài tình yêu chân thành…Để làm đẹp mình hơn trong mắt người yêu, một hôm Hath làm lại mái tóc. Khi trở về, Hath lộng lẫy và xinh đẹp gấp ngàn lần hơn. Mọi người đều trầm trồ khen ngợi nàng là người đẹp nhất thế gian. Lời đồn đến tai thần Venus. Nữ thần sắc đẹp rất tức giận vì Hath xinh đẹp hơn mình, nên bắt Hath phải chết.Hath chết nhưng sắc đẹp của nàng vẫn không tàn phai. Chàng Gimi đặt nàng nằm trong quan tài bằng pha lê và chàng quyết tâm đi đến cùng trời cuối đất tìm cách cứu nàng. Chàng đi ròng rã ngày này sang tháng khác, vượt qua bao nhiêu khó khăn, đi qua bao miền đất, giúp đỡ biết bao người dọc đường. Đến nơi chân trời xa kia, chàng gặp được vị thần Eros.Cảm động trước tấm lòng chàng, thần Tình Yêu chỉ tay lên trời và dặn rằng: ”Ở trong dãy thiên hà xa xôi kia, có một chùm sao gồm bảy ngôi sao băng. Con hãy đến đó, và hái cho được ngôi sao băng sáng nhất. Vào ngày cuối cùng của tháng 7, con hãy ném ngôi sao ấy xuống trái đất, người con yêu sẽ tỉnh dậy. Nhưng sau đó, con phải biến thành ngôi sao để thế chỗ cho ngôi sao băng đó, rồi suốt đời con sẽ chỉ là một ngôi sao. Con có chịu không?”“Những ai được chết vì yêu là đang sống trong tình yêu, ta không quan tâm chuyện gì xảy ra, chỉ cần nàng được sống”, Gimi nghĩ. Chàng tiếp tục lên đường. Chàng đã hái ngôi sao băng sáng nhất, chàng đã chờ đợi ngày để ném nó xuống trái đất. Một ngày dài như một năm chờ đợi, chàng không thể chờ thêm được nữa. Chàng đã ném nó xuống trái đất trước một ngày. Đêm 30/7 năm đó, khi ngôi sao băng sáng nhất được ném xuống trái đất, gặp lực ma sát cực lớn của bầu khí quyển, nó đã vỡ tung ra thành hàng trăm mảnh nhỏ, làm sáng rực cả một vùng trời. Sau này, người ta gọi đó là mưa sao băng.Ở dưới trần, trong chiếc quan tài pha lê, nàng Hath vẫn nằm im, xinh đẹp. Mái tóc nàng mượt mà như suối, những ngón tay nàng nhỏ nhắn, mềm mại đến diệu kỳ. Cơ thể nàng vẫn lạnh ngắt. Chỉ đôi dòng nước mắt nóng chảy trên gò má nàng chảy mãi, chảy mãi. Chàng Gimi giờ trở thành một ngôi sao. Vì quá thương nhớ nàng Hath mà chàng không thể thắp sáng nổi chính mình. Chàng trở thành ngôi sao mờ nhạt nhất trong chòm sao tình yêu.
Hoan Cong Lee

TPHCM: Trên 3,4 tỷ đồng nâng cao năng lực cho nhân viên xã hội

TPHCM: Trên 3,4 tỷ đồng nâng cao năng lực cho nhân viên xã hội
29/01/2008
UBND TPHCM vừa phê duyệt dự án Nâng cao năng lực cho nhân viên công tác xã hội và phát triển cộng đồng tại VN, do tổ chức Bánh mì cho Thế giới (BFDW- Đức) tài trợ. Theo đó, BFDW sẽ viện trợ không hoàn lại trên 3,4 tỷ đồng để thực hiện mục tiêu nâng cao kiến thức, kỹ năng cho 240-300 nhân viên công tác xã hội và phát triển cộng đồng ở TPHCM.

Phát biểu của Ông PCT Quốc Hội Uông Chu Lưu

"Nhưng bản chất cai nghiện ma túy là vấn đề y học, tâm lý nên không thể chỉ thực hiện bằng một biện pháp hành chính"
(Phát biểu của Ông Phó Chủ tịch Quốc Hội Uông Chu Lưu, trích Báo Tuổi Trẻ ra ngày 25/04/2008)

Phương pháp học tập hiệu quả

  • http://nguoithay.info/

Tin tức: Công ước về người khuyết tật chính thức có hiệu lực vào ngày 03/05/2008

Thứ Bảy, 05/04/2008, 07:44 (GMT+7)
LHQ thông báo công ước về người khuyết tật chính thức có hiệu lực vào ngày 3-5
TT - LHQ. Tổ chức này thông báo công ước về người khuyết tật sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày 3-5 nhằm đảm bảo quyền bình đẳng hơn nữa cho 650 triệu người khuyết tật trên toàn cầu.
Hiệp ước mới được coi là công cụ hữu hiệu để xóa những rào cản về phân biệt đối xử, cô lập khỏi xã hội... đối với những người khuyết tật.

Hướng dẫn khi không đọc được nội dung các bài

Trong trường hợp các bạn không đọc được nội dung các bài do font chữ thì các bạn vui lòng thực hiện các bước sau:
Bấm vào Tools của Internet Explorer
Bấm Internet Options
Chọn Accessibility
Trong mục Formatting, bạn chọn ô Ignore font style...
Như vậy các bạn sẽ doc được nội dung các bài với điều kiện là phải dùng font Unicode.
Thân chào các bạn.

Blog

Đang tải...

Favorites

Đang tải...

An sinh xã hội

Đang tải...

Quản lý dự án

Đang tải...

Công tác xã hội

Đang tải...

Nghệ thuật giao tiếp:Xúc cảm, tình cảm, ấn tượng

Đang tải...

GIỚI-GENDER

Đang tải...

Tâm lý

Đang tải...

Tài liệu chuyên ngành Tâm lý học

  • http://nucuoitraitim.com/4rum/f7-chuyn-ngnh-tm-l-hc.html

PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

Đang tải...

Các kỹ năng

Đang tải...

Học tâm lý trị liệu

  • http://www.tamlytrilieu.com/index.htm

The Community Development Hand book

  • http://dsp-psd.pwgsc.gc.ca/Collection/MP33-13-1999E.pdf

Web về công tác xã hội

  • http://www.ou.edu.vn/test/vietnam/files/kxhh/ngoclam/index.html

Trang Web dành cho nhân viên xã hội, sinh viên ngành CTXH

  • http://foreman.nexo.com/

Tham khảo tài liệu về ngành CTXH, tâm lý, dự án, giao tiếp...

  • http://www.slideshare.net/foreman
  • http://www.slideshare.net/foreman

Các bài viết về tâm lý học

  • http://www.tamlyhoc.net/forum/index.php?board=5.0

Các bài viết về Tham vấn

  • http://www.tamlyhoc.net/forum/index.php?board=26.0

THE SOCIAL WORK INTERVIEW

  • http://www.questia.com/read/99930058?title=The%20Social%20Work%20Interview%3a%20A%20Guide%20for%20Human%20Service%20Professionals

Một số đề tài nghiên cứu

  • http://www.vnsocialwork.net/diendan/index.php?action=recent;start=20

Anh văn vui

Đề thi môn Tiếng Anh bậc tiểu học: Dịch sang Tiếng Anh các câu sau đây:
Câu 1: Ba phù thủy nhìn ba chiếc đồng hồ "Swatch". Phù thủy nào nhìn chiếc đồng hồ "Swatch" nào?
Đáp án: Three witches watch three swatch watches. Which witch watches which swatch watch?
Câu 2: Ba phù thủy nhìn ba nút vặn trên đồng hồ "Swatch". Phù thủy nào nhìn nút vặn nào trên đồng hồ "Swatch"?
Đáp án: Three switched witches watch three Swatch watch switches. Which switched witch watches which Swatch watch switch?
Câu 3: đọc thuộc lòng 2 câu trên (đọc xong lẹo lưỡi luôn)

Kỹ năng sống (Unicef - Unesco)

  • http://www.hcm.edu.vn/kynangsong/

Education foe sustainable development

  • http://www.esdtoolkit.org/discussion/default.htm

Hand Book for Mobilizers

  • http://www.scn.org/cmp/hbmob.htm#SAppendices

Con ếch bị luộc – The Boiling Frog

Con ếch bị luộc – The Boiling Frog

Con ếch bị luộc – The Boiling Frog

Con ếch bị luộc – The Boiling Frog
Tôi sẽ kể lại cho bạn nghe câu chuyện về một chú ếch bị luộc trong nồi nước lạnh, đúng vậy, kể lại!Nếu quẳng một chú ếch vào một nồi nước nóng, nó sẽ nhảy ra ngay tức thì!Nhưng nếu nhẹ nhàng cho chú ta vào một nồi nước còn lạnh trên bếp, chú ta sẽ ngồi im trong đó. Nước mát ấy mà. Và nồi nước ấm dần lên, chú ta vẫn cứ ngồi thoải mái. Chưa có gì mà vội vàng. Nhiệt độ tăng dần dần, tăng dần dần. Đến khi nóng quá, chú ta muốn nhảy ra thì ôi thôi da thịt chân tay đã không thể nhúc nhích được. Cơ thể của chú ta đã bị luộc phần nào rồi, part of his body is dead already!Một câu chuyện ngụ ngôn. Cho những ai thụ động, không đón trước thời cơ. Cho những người muốn tấn công dần dần, từ từ những người khác!Với chúng tôi, là câu chuyện ngụ ngôn cho cuộc sống, cho bầu khí quyển nóng dần lên của Trái đất, cho những rừng cây thưa thớt dần, cho một không khí ngày càng ngột ngạt; và cho hành vi và thái độ của con người! Chúng ta là những chú ếch đang bị luộc trong nồi nước mát!
Theo http://360.yahoo.com/profile-wOP.Oyc1bag_I6a6GpHHbQ--?cq=1

Tắm biển bên trung quốc!

Tắm biển bên trung quốc!

Mỗi quan hệ hỗ trợ

Mỗi quan hệ hỗ trợ

Tâm lý trị liệu

  • http://www.tamlytrilieu.com/index.htm

Management in social work

Management in social work

Management in social work

Management in social work

Why study management?
This chapter outlines why it is useful for social workers at every
level to know something of the discipline called ‘management’. It
asserts that all social workers are managers of a kind and debates
whether, to look at this the other way round, all managers in social
work organisations should have a background in social work practice.
Regardless of one’s views on this question, it does have to be
accepted that today’s managers employ not only many skills which
are transferable from practice but also others peculiar to the
management world, in scope if not always in detail.
The relevance of management theory to social work
As social work organisations move through an era of fragmentation,
discontinuity, contracting out and delayering, each staff member is finding a need to understand how organisational systems work. This is essential both to survival and to finding one’s own place in the scheme of things. It also makes sense among ever increasing managerial demands for detailed information and budgetary accountability. Every social worker is having to learn to think on a much broader canvas than has ever been the case before.This involves looking outwards to service users and resource
providers
– as well as to politicians who increasingly expect to set the agenda
– looking back over work that needs to be monitorednand reviewed, and forwards in order to plan and set aims and objectives. This breadth of vision is something that managers havenalways needed and the management literature has useful things to say on the subject.
Thinking like a manager also enables social workers to bring a critical eye to bear on their own organisations, the services they provide and the standards they set. When people are busy, they sometimes forget to stand back and reflect on how they are perceived, especially by users. Developing a dispassionate approach to what is going on is beneficial; a detached concern helps to maintain a questioning, analytical stance regarding how services are delivered and received. Each time we approach the reception desk of an area office, or visit a group care establishment, it is salutary to ponder on how we would feel if we were a service user or a resident there. There is nothing sadder than to visit an elderly relative or a former neighbour in a home and find that, despite good standards of physical care, their individuality is being eroded because staff are not encouraged to consider their own behaviour in relation to the organisation’s primary objectives. This always reflects on the skills, abilities and motivation of the managers, who may be preoccupied with financial profit in the private sector, short-term cost
control in the public sector or simply seeking a quiet life.
Through studying management, too, we can try to prevent ourselves becoming mere instruments of managerialism or its scapegoat if something goes wrong. Some employers, for instance, have not been beyond disowning the judgements of their staff, even when their own position in the hierarchy made them ultimately responsible for training and supporting those individuals. The relevance of management studies to social work might lie in helping us to see when it is the system, not ourselves, that is at fault and when standards are not good enough and need changing.
Why all social workers are managers
The suggestion that all social workers are managers is probably, at
first glance, not a welcome one. Similarly, those who are about to
become managers may be facing the transition with mixed feelings –
while keen to learn the techniques and gain the rewards of the
competent leader, they may also fear losing touch with direct practice
and perhaps becoming deskilled. The stereotype of a manager
is of a person (disproportionately likely to be male) who has sacrificed
social work values to the importance of filling in forms or gathering data on computer and who gives priority to what his manager in turn expects rather than what users and practitioners demand. Yet, in fact, many practitioner skills in social work are also managerial ones, and all social workers increasingly work to managerialist agendas, so the difference may be one of degree rather than of kind. It has been exaggerated by practitioners not knowing what their managers really do and by a failure on both sides to appreciate that working to change an organisation is not so very far removed from the mainstay of social work itself. The most obvious overlap concerns the management of people.Whether these be service users, carers, the general public or thosewho regulate service provision, management, just like practice, involves the ability to write and speak clearly and to engage in purposeful interpersonal relationships. So perhaps social workers who become managers have a head start here? On the other hand, believing that they ‘should’ have a flair for ‘people skills’ could embarrass those who are newly promoted, impeding spontaneity and making them self-conscious for a time. It may help to remember that managing people is at the heart both of providing services tonusers through social work methods and of organising and working
towards the effective delivery of those services by others.
The principles and skills involved in managing personnel are common to all organisations – private, public and voluntary. The objectives may be different from one agency to another, and at each level within a department, but the means used in attempting to reach them remain constant. Engaging with and relating to people, helping others to achieve their goals, supervising their efforts, maintaining morale, consulting a wide range of sources prior to making decisions, problem-solving, and introducing and managing the process of change are just some of the tasks common to the practitioner and the manager.
There are also transferable skills from particular methods and
modes of social work intervention. The systemic thinking which
underlies the techniques of family therapy, for example, is just as
relevant when trying to sort out the patterns of relationships which
exist in larger systems such as organisations as it is in families.
Equally, when leading a team, many of the ideas gleaned from
groupwork also stand one in good stead. Just as Allan Brown
(1992) proposes that those who have experienced mutually trusting,
collaborative and creative teams make good groupworkers, so
those with experience of groupwork are likely to contribute to positive
team spirit and constructive co-working as facilitative team
members or team leaders. Knowledge of group cohesion, openness,
risk-taking and interdependence in groups can be transferred
directly to the role of team manager, although the context and aims
naturally differ from those experienced in groupwork intervention.
Management in social work
A further good preparation for management is the role of the
care manager. Undertaking assessments and coordinating packages
of care within tight budgets has become a core task for many frontline
practitioners. Valuable skills developed include those of bargaining, mediating, negotiating, liaising and advocacy in order to make the best use of resources. And one could certainly argue that social workers who have become more financially aware, even without holding the purse strings of a fully devolved budget, will make better managers later on. There will be less of a divide to cross than in the days before unit costs of service were known, when social workers were largely unaware of the direct impact of resource restraints and decisions to refuse services were taken much higher up the hierarchy than may be the case now.
For those social workers who are budget holders, there may be
some worrying issues to be resolved. For instance, there may be
inherent contradictions in orchestrating community care packages
within resource limitations while also acting as an advocate for
better client services overall, or in balancing a user’s needs and
wishes while also shopping around for the least costly forms of
care. Although we may not argue with the need to keep the taxpayer in mind, there is the problem that, when professionals are given financial responsibility, they may become distracted from their fundamental aims. As Priestley (1998) demonstrates in respect of care assessments of disabled people, these frequently appear to be budget-led rather than truly needs-led, and the discourse of ‘need’ is in any case contentious since it usually covers only personal and domestic tasks, not assistance in having a social life, for example. It remains to be seen whether direct payment schemes will give service users more access to real choice and whether social workers will learn from disabled people that they do not have a monopoly on defining need.
Although these narrowly financial concerns may be recent, the
management of resources has, in fact, always dominated the social
worker’s tasks if we count within this the management of time and
of self. Frontline workers devote many hours to travelling, attending
meetings, negotiating, doing ‘admin’ and referring on. It is startling
how many social workers and their managers are unable to
ration themselves across a working day or week or to delegate
effectively. While the theme of the 1980s was to assume that
managers should be available at all times and respect was reserved
for the ‘workaholics’ (the ‘lunch is for wimps’ ethos), the managers
of the future (and ideally all workers) should be noted for their
capacity to reflect on what they are doing and to draw boundaries
around the energies available for their career and those available
for personal and family commitments. (Lunch is back in fashion, as
is building exercise and ‘quality time’ into the day.) Self-management
of this nature is one way of preventing stress-related illness.
As well as managing resources, social workers and social care
staff at all levels participate in meeting required standards. In child
care policy and practice, for example, individual social workers are
told very clearly what information they need to gather about children
and families in the Assessment Framework, the Looked After
Children (LAC) Assessment and Action Records, and the national
codes and guidelines for both foster care and the residential care of
children. Standards for adult services, too, are enforced by independent
scrutiny and all services are being drawn into National
Service Frameworks to ensure effective working across professional
and organisational boundaries.
Standards and procedures are equally a part of a new ethos in the
voluntary and private sectors. Most voluntary organisations have
to comply with Charity Commission requirements and often the
obligations of a compact and/or contracts with the local authority,
and all independent providers operate within a contract culture,
which means that staff have to be constantly aware of quality standards
and required managerial practices. Nor do freelancers escape
from procedures, guidelines and form-filling. Trainers, consultants,
mentors and other self-employed people who use their social work
qualifications and experience to work from home are increasingly
expected to operate their own quality controls to nationally recognised
standards and the contracts they obtain for their services typically
require this to be the case.
A final reason why we would argue that all social workers are
managers is that each person in a department can be an instigator
or a contributor to change and innovation. These do not always
have to come from outside; changing the agency from within occurs
quite frequently and one need not always be in a position of power to
influence agency practice. If we view organisations as psycho-sociopolitical systems and study people’s behaviour within them, we are
then in a good position to change our working practices, especially
if, in their current form, they are adding to the burdens of users,
carers and others. Undertaking projects for Post Qualifying and
Advanced Award programmes in social work or for an MBA is one
opportunity that increasing numbers of people have had for standing
back and thinking about a focused area of work where they can
be particularly influential.

What is special about managers?
It may be that some readers will disagree with the assertion that
social workers are practitioner-managers. It could fairly be pointed
out that being a manager consists of more than undertaking
managerially dictated duties; there are specific tasks involved, not
least enabling others to get work done and carrying forward the
overall aims of the organisation. So let us consider a few of the
ways in which managers’ functions are distinct.
First, while managers and social workers both control resources
and exercise authority, the extent to which they do so differs.
Second, the social worker is a specialist in delivering the services
from her/his particular domain, whereas a manager’s tasks relate to
the organisation as a whole or at least one section of it. Thus, those
who control group care services would take into account additional
factors when deciding to allocate a place in an establishment to an
older person, including the overall policy of the agency and the
total number of people competing for the resource. Managers have
to make decisions and be concerned for clients whom they have
never met.
Third, although practitioners keep an eye to the future
when planning their work on a particular case, top managers have
a macro-interest in the future of the whole organisation, ensuring
that it will remain a going concern to meet future needs while also
dealing with ever changing current circumstances.
Fourth, social work and management processes share a concern for problemsolving and enabling, but the degree of authority in organising
people to get work done is greater for line managers. In addition,
styles of leadership and the performance of managerial tasks, such
as the exercise of authority through decision-making, have an effect
on other people’s performance, not simply one’s own; thus, the size
of caseloads, the allocation of work and the supervision of it are
usually part of the duties of team leaders and senior members of
staff.
Finally, the selection and orientation of new staff, although involving the team, is normally a specific task for people in management positions.

Why study management?
Before we move on to explore another side of this coin, by questioning
if all managers should be social workers, let us recap the
position so far:
1. Managerial administration is the process of organising resources to get work done and, at this level of generality, all social workers are involved in it.
2. Although certain roles carry the title of manager, team leader
or senior, in every organisation each person is part of the administrative structure and is thus administratively, as well as professionally, accountable for the work they do.
3. At the same time, managers who have this title have specific
functions that are essential ingredients of their role as administrators;
some of these are different in degree rather than kind from the work of social workers, but others are related to the authority which is exercised.

Should all managers be social workers?
Is it necessary for those who develop and maintain social welfare
organisations to be qualified social workers? When social services
departments (SSDs) were first created, it was thought that those
heading them should, if possible, be qualified in social work and,
ideally, be experienced and/or trained in administration (Seebohm
Report, 1968). At that time, many top managers were promoted
through the practitioner ranks and only a few were from other
professions. Management training and qualifications were poorly
developed; experience and ‘political’ ability were seen as the key
requirements. The rise of the managerial ethos in the 1990s undermined
this position, with generic management training and skills coming to the fore. At the same time, SSDs themselves started to diversify and increasingly employed a variety of professionals, notably nurses and occupational therapists, to undertake roles in adult services. More recently, not only have social work-qualified managers started to disappear but also the social services as a separate entity. Various forms of restructuring have taken place. In England and Wales, children’s social services are splitting away from adult services, with Children’s Trusts now bringing children’s social services and a range of other services for children and young people, such as health and education, together in one, new organisational structure. In some, Care Trusts perform a similar function for adult services. At the same time, social workers are increasingly employed outside these settings altogether, in multidisciplinary teams of various kinds. In all these examples, there is no reason why the team or organisational managers should be from a social work background.
In the voluntary sector, there are equally significant changes.
Charitable organisations have had to become more businesslike,
more competitive in an age of contracting out, are held to account
for their performance and are reliant on marketing their image and
their work in order to sustain an income; their managers face new
challenges accordingly (Jackson and Donovan, 1999). Of course,
there is enormous diversity among voluntary bodies in the UK and
only a fraction have a social work identity or even employ qualified
social workers, although, at the same time, there is a continuing
trend for local authorities to contract out public services to voluntary
sector provider agencies. The question of who their ‘managers’
should be is therefore complex. The private sector has also increasingly
entered social care, as a provider of a wider range of services,
bringing its own ethos of customer relations and financial management.
It is not uncommon for managers to run their own care
homes or be employed in relatively small businesses. A social work
qualification would not be high on the list of requirements for such
a position.
All these developments radically change the balance of the argument
about what is needed in a manager. When even well
established charities are having to look for figureheads who are
good at ‘fronting’ their organisations, the idea of being professionally
qualified in social work may seem almost irrelevant. And the
emphasis on commercial or business ‘success’ may dictate a different
set of priorities and skills from those traditionally valued by
organisations which see themselves as preventing human distress
and working in partnership with users – for whom there may be
little public sympathy or support.
Moreover, just as good teachers or good nurses do not necessarily
make good managers, experienced social workers may not make
an automatic transition, either. The specific tasks of management
administration outlined above, and the broader perspective that is
required of social work leaders, are not part of everyone’s equipment.
If we look back to the Introduction, it was suggested that
administration combines the three elements of direction (long-term
planning), management (sustaining the system as a going concern)
and supervision. If, as we said, these correspond with three general
levels in the hierarchy, then we might be able to answer the question
by proposing that, in large organisations, the two top tiers
primarily call for sound management (and are precisely the levels at
which staff are increasingly studying for MBAs), while the supervisory
roles are best carried by those who have competence in the
professional activity they are supervising. Interesting backing for
this view comes from a study which shows that third-tier social
service managers mainly do have professional qualifications, but
that their thinking may well turn to obtaining management training
once they begin to move up the career ladder; they begin to identify
as managers rather than as social workers (Lawler and Hearn,
1997). Nevertheless, it is only in the most senior roles that professional
managers are starting to be seen, that is, those who have
trained in generic management skills and have chosen to use them
in the public sector, as opposed to those who have risen through the
ranks to a top-level management post.
The appointment of people with social work qualifications and
backgrounds to key posts in Primary Care Trusts, combined local
authority departments and other multidisciplinary settings demonstrates
that social workers have a great deal to offer at all levels.
Their experience in relating to other professionals and their organisations
equips them well for managing multidisciplinary teams, and they benefit from the fact that both management and social work are all about people and relationships. It would be a shame if more social workers did not aim for the top, including women, black staff and others who have traditionally been under-represented at that level. Adding mentoring, management training and skills on the way up can only help. Whoever is given the role of manager, a solid grounding in the nature of the service being
provided, credibility with staff and an understanding of the roles of
those in direct contact with the public are essential.
Whatever the position held in a social work organisation, there
are certain commitments that all managers have to make and
particular challenges to address, as listed below:
1. Despite, and in some senses because of, the breadth of issues
tackled in the personal social services, this is nevertheless a highly specialised field.
2. Social workers have their own skills, knowledge and values.
As professionals, their expertise in planning and decisionmaking
within their own field has to be acknowledged and mirrored in the way the agency involves them in administrative processes.
3. Any plans for developing services or rethinking the agency’s mission (that is, its purpose) need to reflect the equal opportunities goals that have become part of social work’s traditions, including a commitment to anti-oppressive practice.
4. If the manager comes from a different occupational background, credibility might be established more readily by showing a genuine willingness to learn about social work’s current professional concerns and practices.
5. The importance of relationships needs to be highlighted: between service users and workers; among team members; with other disciplines; and also with numerous local, regional and national bodies.
6. What distinguishes human service management from that in non-service sectors is the fact that many agencies are dependent upon other organisations; planning has to take into account the restraints imposed by legislation and policy imposed from outside, as well as those inherent in relying on others to purchase or provide services.
7. Management approaches in social work cannot always be the
rational and tidy ones suggested in some of the management
literature. Service goals may contradict one another (for example caring versus controlling antisocial behaviour) and there are additional demands in making services holistic and appropriate rather than fragmented or impersonal, as well as in matching them wherever possible to the felt needs of a particular community (for instance in providing home care
services which are acceptable to people of varying ethnic backgrounds).
8. Human services operate in turbulent environments, frequently
subject to political whims and media-led changes, therefore long-term plans have to be flexible.
9. While coping with all this uncertainty, the manager of a service organisation also has to recognise that staff work from imperfect theories and conflicting ideologies about the‘causes’ of human behaviour, they are called upon to tackle unpredictable and unknowable events and they increasingly focus largely on the ‘heavy end’ of human distress and need,
as in child protection and mental health services. This makes staff care and staff development particularly important in social work, but also means that any requests from management are likely to be experienced as yet one more demand from those who are not actually involved in doing
the frontline job.
10. Perhaps most importantly, the commitment of social work
managers must not be to the organisation as an end in itself or to their own personal ambitions. The raison d’être of social work is its service users and the general public more widely; consequently, the focus has to be on high quality services and on supporting, developing, monitoring and guiding the work of the professionals who implement them.
The challenge to management outlined in this book is to harness
management theories and those styles in social work which are best
suited to the developments of the new millennium. The time is overdue
to flush out managerial approaches which may have sounded
impressive or ‘macho’ in their day but which have proven unable to
balance the requirements of a principled and intelligent workforce,
a vulnerable but potentially self-determining body of users and their carers and a general public which, while committed to the maintenance of high quality welfare services, also cares about community safety, good stewardship of public (or charitable) money and the public mandating of trends in social policy. If this makes management sound as if it is all about listening to, and working with, an infinite variety of people while undertaking a taxing job, then social workers ought to be extremely good at it!
And, of course, many of them are.

SOCIAL WORK PRACTICE

SOCIAL WORK PRACTICE

SOCIAL WORK PRACTICE

SOCIAL WORK PRACTICE
Introduction
For social work there is a continuing tension between practice
and theory. This tension exists both within social work and about
social work. At times students and practitioners have protested
that it was necessary to forget theory once in practice. The argument
has been that theory is abstract, inaccessible, and that it reduces spontaneity in helping people. Using theory implied distance and objectivity which contrasted with feelings and the living reality of social work encounters. As such it was seen to be a stumbling-block to developing individual style, and the most that could be hoped for was that students would admit that they might subconsciously be using theory that they had absorbed during their education and training.
Other discussions that have taken place, mainly among academics, are that social work has suffered because it has been seen to be theory-less or atheoretical. The suggestion is that because social work is about practice then it is neither a profession nor an academic discipline, it is merely the appliance of other social sciences (Orme, 2000a). While this might be seen, in more ways than one, to be an academic debate it is important because social work’s uneasy relationship with theory has made it vulnerable in many ways. Policy-makers could argue that anyone can do social work, or that social work was not necessary. Or they could introduce policies and practices, such as care management, that sought
to displace social work to the extent that they rename it social care.
In universities the fact that social work did not develop, or was not
seen to be developing, theory meant that its legitimacy was being
challenged. Social work did not have a place in universities. For
those who deny the need for theory, education and/or training for
social work practice this is not a problem. For social work as a
whole and those for whom social work exists, client/service users,
it constitutes a threat to the quality of services provided.
In a text about social work practice it is vital that we consider
the role of theory. This is not because theory should prescribe how
social work must be practised, but because the use of theory is the
hallmark of a good practitioner. This introductory chapter will
explore what is meant by theory, and how social workers apply
theory in practice. To do this is not merely a justification for the
text; it is a contribution to the defence of social work as an activity.
Why practice needs theory
Over time students have become less antagonistic to theoretical
ideas, naming and trying to integrate what can at first glance appear to be a smorgasbord of apparently contradictory explanations of behaviour. Education about theories that might underpinndecision-making, or that might inform what action to take, isnenjoying resurgence in the form of the social work degree but this has not been without a struggle.
The competence-based approach to education and training introduced
in the 1980s (CCETSW, 1989a), reflected assumptions that social work is a set of functions, and that practitioners need to be trained merely to perform these functions. This was reinforced by legislation and policy initiatives that were accompanied by sets of ‘guidelines’, attempting to set limits on social work activity. The consequence of this prescriptive account of social work intervention was that the emphasis was on tasks, and task performance, not on workers’ abilities to analyse and process information drawn from their skilled interactions with individuals, families or groups. Such an approach was unethical, failing to provide users of social work with appropriate interventions, and as such it is incompetent. As Howe (2000) argues, practitioners who develop and offer coherent
applications of what is going on in their practice keep their professional
bearing and sustain their commitment. Service users deserve
professional and committed practitioners.
More importantly if such a mechanistic approach is adopted, there is no understanding that the information gleaned during social work interventions might be interpreted in many different ways, depending on which theoretical approach is used. Nor is there any expectation that students and practitioners will review their intervention in the light of the growing amount of practicebased research available in social work. The competence-based approach (see Ford and Hayes, 1996, for a discussion of this approach) requires certainties; that if you are dealing with A, you can intervene with B and that will secure an acceptable outcome C.
In the history of social work such assumptions were associated with
a scientific approach when social workers, in their quest for a professional identity, looked to medicine.
In a climate of increased managerialism, workers are scrutinised
on performance indicators that include the number of service users
or problems dealt with, the time taken to respond to a referral (or to
prepare a report) or other calculations of throughput and output. The
‘management’ outcome is often that the required form has been completed. The quality of the intervention, what has occurred or
might occur between the worker and the service user while the form
is being completed, was not covered in national standards for
probation practice, competences for care management or definitions
of ‘best value’.
The dilemma for social workers is that there are tasks to be
performed and skills to be utilised, but prescriptions of ‘the what’
and ‘the how’ cannot be constructed in a vacuum. Social workers,
to be truly effective, need to be constantly asking ‘why?’ It is in this
quest for understandings about, for example, why situations arise,
why people react in certain ways and why particular interventions
might be utilised, that theory informs practice. However, this might
suggest that there is a certainty about what theories should be
taught, that theory for social work practice is uncontentious. What
follows in this chapter is a discussion of what constitutes theory
and the contribution of theory to ‘ethical and effective’ practice.
The use of that phrase brings us back to the developing relationship between theory, practice, education and training.
A change of government in the late 1990s and concerted efforts by
academics and practitioners led to a reclaiming of the place and
function of social work. The incoming Labour government initially
attempted to dismiss the need for social workers. However repeated
child abuse tragedies, concerns about mental health users and other
social problems led to a re-think and a decision to ‘modernise’ social
work. In the process this offered a chance to increase qualifying levels
in social work. In the development of the degree some important
tensions emerged. The announcement that an undergraduate degree
was to be the minimum qualification was accompanied by a statement
from the Minister for Health, Jacqui Smith, that this was to be
a ‘practical degree’, that services users needed social workers to do
practical tasks to resolve their problems, not think about why the
problems had arisen. Others felt that undergraduate study of both
practice and theory would prepare workers for the complexity of the
social work task (Orme, 2001a).

Theory, practice and research
The developments in social work education and training were
accompanied by increasing attention to the relationship between
research and practice. That a research base for social work is necessary
is indisputable. Initiatives such as Making Research Count and
Research into Practice focus on ways of encouraging social workers
to utilise research findings to inform their practice. These initiatives
were supported by the setting up of the Social Care Institute for
Excellence (Scie) with a remit to ensure ‘knowledge transfer’, that
is, to gather research findings, evaluate them and disseminate them
to the social care workforce.
This infrastructure was to support an evidence-based approach to
practice, described in criminal justice as the ‘what works’ approach
(McGuire, 1995). However the terms ‘evidence-based’ and ‘what
works’ have been contentious. Debates about the nature of the
research, appropriate methodologies, ethical issues and the impact of
research are central to social work, both in academia and in practice.
Parton (2000) suggests that crucial to discussions about an evidence
base for social work is an understanding of whether evidence of good
practice refers to the way problems can be solved, or the effectiveness
of the organisation. For example, the development of the ‘what
works’ agenda has influenced service delivery in the criminal justice
field.
Chapter 8 describes how research evidence that demonstrated
that accredited groupwork programmes based on behavioural
approaches were effective ways of working with offenders led to
their proliferation in the criminal justice services. However notions
of ‘effectiveness’ were part of a managerialist agenda that required
requisite numbers of offenders to be processed, and prescribed
methods of intervention (Chapman and Hough, 1998; Home
Office, 1999) irrespective of the quality of the intervention or the
appropriateness for the individual offenders.
Such developments could be seen to fulfil fears that emphasis on
theory curtails the spontaneity and freedom of practitioners. But
approaches to research that merely describe findings and assume that
these are the answer to practice dilemmas are not good research, and
do not constitute theory. This does not mean that practitioners can
adopt an ‘anything goes’ approach. In research, as in practice,
workers have to be reflexive. That is, they do not accept information
uncritically and they must be able to test out ideas in the light of
practice experience. This has been crucial in the development of good
research-informed practice. It has also contributed to approaches to
research that involve practitioners and service users in research,
acknowledging that the best way to understand situations is to
ascertain the views of those in the situation. While such approaches
are desirable they are not straightforward, not least because they
challenge the power of both the practitioner and the researcher
(Orme, 2000b). More importantly they recognise an important
strand of theory building – theory from social work.

What is theory?
Educationalists have debated at length competing positions regarding social reality and the production of knowledge, in other words, theory (for discussion see Rojek, 1986; Howe, 1987). Put more simply theory is a framework for understanding a clustering of ideas that attempt to explain reality in a self-conscious way (Stepney and Ford, 2000, p. viii). This self-conscious explanation involves ‘making sense’ of what is going on by observing, describing, explaining, predicting and intervening (Howe, 2000, p.81). It is also this imperative to explain that distinguishes a theory,
which seeks to explain why; from a model, which seeks to describe
how factors interact; or a method which involves formal written
accounts of how to do the job (Stepney and Ford, 2000). Hence in
many of the following chapters descriptions are given of how to undertake a particular social work intervention, but these are accompanied by different theoretical perspectives on why this model has been developed and which theoretical perspectives explain why it is effective.
However, as has already been stated, this does not mean that
there is only one explanation or perspective. Academics and practitioners
with particular theoretical perspectives will observe, describe, explain, predict and intervene in different ways. This is referred to on a number of occasions throughout this book when critiques of particular approaches are provided to help practitioners reflect both on what is being proposed, and on their own particular position in relation to those proposals. While for some this lack of certainty might seem unhelpful, Howe suggests that it should be embraced positively: ‘Rather than bemoan the number and range of theories the practitioner needs to acknowledge that diversity
reflects the subtlety and complexity of the human condition’
(Howe, 2000, p. 83).
Also there is no need to assume that because there are different
perspectives, these are necessarily contradictory rather than
complementary. The ‘gladiatorial paradigm’, that is, the notion that
social work theories compete and cannot be integrated since they
offer opposing interpretations of social reality, ignores the
commonalities and interdependence of explanations of how human
beings shape, and are shaped by, their internal and external worlds.
Moreover it ignores ambiguity, uncertainty and doubt which are
features of the complexity of social work practice (Parton, 2000).
Either/or arguments, such as insisting that counsellors must be
either Rogerian or behaviourist, or that social workers are either
radical or traditional in their approach, fail to see the underlying
continuities that hold together such apparently diverse positions.
Most theories have elements in common as well as elements in
opposition. The eclectic practitioner, who claims to take the ‘best’
from different theories, actually holds a consistent view of people
and their situations (Howe, 1992: Payne, 1998). Purists might
attack this seemingly undisciplined and incoherent way of working;
yet this is the way in which practice is generally conducted, not
least because it reflects the complexity of situations in which social
workers intervene. However such debates do highlight the range
of theoretical perspectives upon which social work draws, and
demonstrate that social work is certainly not atheoretical.

Theory for practice
Since there are competing explanations for the situations social
workers meet, it is not surprising that there is little agreement about
the nature of theory that is required to intervene in those situations.
Siporin (1975), for example, believed that social workers needed
foundation knowledge (personality theory, social theory and social
policy theory) that would contribute to an understanding of the
person in society. Jones (1996) on the other hand criticised social
work academics’ selectivity in identifying and privileging certain
theories or, in his words, ‘seeing (theory) as a resource to be plundered
and pillaged’ (Jones, 1996, p. 203).
Another way of framing theory is offered by Pilalis’s (1986) six
meanings of ‘theory’ which reflect visions that are carried amongst
student groups. Some regarded theory as general rules or laws
testable against observable evidence. Others, similarly influenced
by the physical sciences, took it to mean a probability, a hypothesis
or a speculative explanation subject to research. The third and
fourth meanings, specific to the human sciences, involved a system
of principles which help us to understand events more clearly or to
capture, for practical purposes, underlying ideological and value
bases of say psychological, sociological or political ideas. Finally,
popular uses of the word ‘theory’ are encapsulated in the fifth and
sixth examples. That is the way in which it is distinguished from
practice (‘this is theory rather than practice’) and the dismissive,
‘that is all very well in theory’ which sees knowledge as idealistic,
and representing unattainable goals.
A more common way to classify theory is to distinguish between
‘levels’ of theory. So called ‘grand theories’ included Freudian or
Marxist explanations of what motivates human nature, giving
seemingly all-inclusive accounts. On the other hand, ‘mid-range
theories’ are not so comprehensive, they address particular
phenomena such as loss, attachment, delinquency and so on and try
to explain their causes and consequences. Such explanations can be
offered within Marxian or Freudian understandings of the world
(see Howe, 1987 for examples). Finally, micro theories describe and
explain particular practices.
These classifications, also known as the deductive approach
(Howe, 2000), can be described as theories for social work. That
is, the relevant social sciences are applied to practice. However
practice is more than a ‘rational–technical’ activity (Parton, 2000) of
applying knowledge from other disciplines to help decide what to do.
An inductive or constructive approach, that is, building theory from
practice and observation is just as, if not more, important.
In developing a particular approach to practice, a constructive
approach, Parton and O’Byrne argue that there has been a failure
to articulate and develop concepts and theories for practice. By this
they mean ‘a range of insights and concepts which had previously
been derived from detailed analysis of what goes on between social
worker and service user’ (2000, p. 7). However, these are, in fact,
theories from practice. Before considering what that means, we
need to recognise that there has also been a development of theories
of practice.

Theories of practice
Theories of social work include understandings of, for example, what it is and who is it for, but also contribute to models of how to do social work. Often this theory is developed inductively when workers build up theory from observations of their practice and observation. An example of this is task-centred practice, where a whole new approach to practice was developed after existing practices were observed and new ones introduced and assessed (see Chapter 7).
However other developments are not so overt. Theory that is implicit (Evans, 1976), alternatively called practice theory or practice
wisdom, makes assumptions about what social workers do and
how they make sense of their experiences. This explains in an organised way how social workers may usefully act, using their knowledge of the social world. England (1986) argues that a social worker’s ‘practice knowledge’ involves a unique understanding of the people who constitute the clients, ‘the general processes of perception and the creation of meanings which determine the individual’s capacity to cope’ (England, 1986, p. 34). However, in espousing a commonsense approach, England is being neither atheoretical nor anti-theoretical, but argues that ‘defined’ knowledge is not enough on its own. Professional learning has to be accompanied by, or mediated through, ‘personal’ knowledge that will
inform intuitive knowledge and intuitive behaviour (England,
1986, p. 35). This position is reinforced by Parton (2000). His definition
of social work as a practical moral activity involves social workers drawing upon tacit knowledge to inform and make sense of their interventions.
Significant in the development of an evidence base for social work is the work of Scie in trying to elucidate this tacit knowledge.
By producing practice overviews and practice guides, resource
guides, knowledge reviews, reports and positions papers (all available
on the Scie website: www.scie.org.uk), Scie promotes good practice by reviewing knowledge to find out what works best and sharing this knowledge with all kinds of people involved in social work.

Theories from practice
Knowledge gained from theory exists to inform social workers’
understanding, not to dominate it. As England argues, theory is not
an end in itself, ‘Abstract knowledge in social work, whilst it remains abstract knowledge, is utterly useless’ (England, 1986, p.35). If effective strategies and techniques are recorded and developed, then knowledge is created and can be used to direct others to what is common and regularly occurring in human experience.
Some codification of activity enables social workers to evaluate
their practice. When social workers evaluate their efforts, be they
services to individuals or whole programmes of care, they begin to
engage in theory building. Much social work theory derives from
someone’s experience that has been written down and shared with
others. This can be described as theory from practice. However this
does not mean that it is unassailable. What it does mean is that
everyone’s perspective is valuable, and importantly this recognises
the perspectives of users and carers in the development of theory.

Postmodernism
As social work searches for a theory base, the notion of theoretical
coherence is being challenged by postmodernism (Howe, 1994;
Fook, 2002). Postmodernism focuses on how and why we seek for
explanations or underlying causes, rather than what those causes
might be. Hence postmodern notions of practice theories for social
work would be ‘a kaleidoscope of ideas, research findings, argument,
practice wisdom, values and critical speculation, whose coherence would lie in relationships between the different parts, and between them and the reader’s experience’ (Tuson, 1996, p. 70).
But as Stepney and Ford point out, while academics might usefully debate theoretical dilemmas such as whether truth exists, practitioners can only afford such luxuries if they bring about tangible benefits and lead to positive outcomes (Stepney and Ford, 2000, p. 21). But accepting that there are many influences on the construction of social work theory, and ultimately practice, can be enormously helpful to practitioners. That there is no one timeless, all-embracing theory for social work, and that social
work evolves and reforms according to local and cultural conditions
of all social life (Howe, 1994) creates the potential to build theory from practice. More importantly, doing so calls into question who defines relevant theory, or which theories are privileged at any one time.
Social work theory should never become an end in itself, it can
be generative offering new insights and perspectives (Parton, 2000).
It therefore has to be both interactive and reflexive, and will change
in response to practice constructions (Payne, 1991).

Reflexive practice
The notion of reflexive practice has contributed to the synthesis
of postmodern critiques and theory building in social work. This
synthesis has contributed to the development of emancipatory or
transformational theory (Payne, 1998). As Fook (2002) explains,
part of the resistance to theory is that there has been an inexorable
link between knowledge and power. Postmodernism questions the supremacy of professional knowledge and thus significantly undermines the professions’ claim to dominance (Fook, 2002, p. 37).
This might seem ironic in that so far this chapter has argued for
developing a theory base as part of the recognition of something
called ‘social work’. But this depends on a particular use of knowledge
by professionals. Schon (1987) argues that technical knowledge
helps professionals only to a limited extent. Reflecting on the different
contributions to any social work interaction involves identifying
the limits of existing theories and developing new ones. Hence a
reflexive stance requires practitioners to ‘reflect in action’ and
demonstrate or construct accounts of what they have done, in what
order and the outcomes; the values, strategies and assumptions that
make up ‘theories’ in action (Schon, 1987). It is this that holds the
potential for change (Fook, 2002), not only in professionals’ perceptions
of the situation that they are dealing with, but also in theories
that inform the situation, the theories for and of practice.
However a truly reflexive stance, a one that develops theory from practice, has to recognise that explanations of what is happening in social work interactions are not the sole prerogative of practitioners. Any understanding has to incorporate the contribution to knowledge from users and carers. Postmodernism questions assumptions about ‘legitimate’ knowledge. Often legitimacy is granted because of the way things are known, who knows them and how knowledge is conveyed to others (Fook, 2002). Writers such as Foucault (1980) have highlighted that some knowledges (that is what people know about their experiences) are classed as inauthentic, not valid and not taken into account. In the past the
knowledge, experience and views of service users have been treated as inauthentic or subsidiary. This contributed to the oppression of service users by the processes and practices of social work. Practice informed by user and carer perspectives is emancipatory and reflects the anti-oppressive value base of social work.
The potential of critical reflection is not that it overthrows or throws out all other understandings of theory, but that it challenges assumptions that only certain theories are valid. It does not mean that only one form of knowledge, that is, either professional knowledge or service user knowledge, is valid; it accepts that both have a contribution to make to understanding situations, and therefore constructing theory about them. This is crucial in the process of undertaking social work assessments, as we shall see in the next chapter.

Praxis
Critical reflection also helps to bring together theory and practice
in a way that is meaningful to practitioners. The educationalist/community worker Freire (1972) calls the ability to think and do ‘praxis’, a Marxist term that has been explored further by feminist scholarship (Stanley and Wise, 1990). The notion of praxis encourages people to perceive, interpret, criticise and transform the world around them. In social work a lot of time is spent in giving tangible, immediate, practical help, but this does not invalidate attempts to look beyond the obvious to ensure that experiences of inequality and oppression are revealed and challenged.
Underpinning praxis is the notion that it is not enough to study the world; the aim is to change it. Hence we have come full circle in exploring the relationship between theory and practice.

Conclusion
Professional social work practice requires that workers deploy a
wide-ranging repertoire of skills, underpinned by a value base that
respects others. This will enable them to respond to the diversity of
experiences and reactions that are encountered when working with
fellow human beings. Skills and values are only meaningful if they
are informed by theories. However as we have seen in this chapter
theory building and theory application require a complex interaction
between knowledge and process, challenging notions of who
produces knowledge, how it is used and what are the implications
for practice.
In this context the aim of this text is to provide not a recipe book, a manual of how to do social work, but an array of approaches which themselves arise out of, and are constructed by, the attempts of others to describe practice. It is important for practitioners to be able to utilise the knowledge generated and to understand that each intervention in which they are involved will add to their knowledge and understanding, and help to contribute to their own theoretical approach. In this way, and in many
others, this text should be considered as a beginning, and not an end in itself. putting it into practice
1. Identify a piece of your own practice. This might be a case or just one
interview. While you are thinking about it list all the ‘assumptions’
that you made when dealing with the situation: about the people involved; what was going on; what might happen; what you might do to help those in the situation and so on.
2. When you have made the list try to organise it into themes around
the kind of theory that has informed your thinking. This might be theory about human development, theory about oppression and discrimination or it might be theory associated with a particular way of intervening.

Ethics and values in social work

Ethics and values in social work

Ethics and values in social work

Introduction
Current context of social work

The occupation of social work is currently in a period of change –
both in the UK and in many other countries – as the role of the state
as a direct provider of services declines, resources for welfare are
being reduced and new styles of management and accountability are
introduced. This makes it not only difficult to look at the ethics and
values of social work (because old values may be becoming irrelevant
and new ones are beginning to emerge) but also particularly
important. Social work has always been a difficult occupation to
define. It is located within and profoundly affected by diverse
cultural, economic and policy contexts in different countries of the
world. Social work embraces work in a number of sectors (public,
private, independent, voluntary); it takes place in a multiplicity of
settings (residential homes, area offices, community development
projects); practitioners perform a range of tasks (caring, controlling,
empowering, campaigning, assessing, managing); and the work has
a variety of purposes (redistribution of resources to those in need,
social control and rehabilitation of the deviant, prevention or reduction
of social problems). This diversity, or ‘fragmentation’ as some
have called it, is increasing, which raises the question of whether the
occupation can retain the rather tenuous identity it was seeking to
develop in the 1970s and 1980s.
In such a climate of fragmentation, there are some who argue that
it is the values of social work that should hold it together. Yet the
values traditionally stated – self-determination of the service user,
acceptance, non-judgementalism and confidentiality, for example –
are neither unique to social work nor do they seem to be complete
for social work. Similar statements of values or ethical principles are
made for medicine, nursing and counselling, for example. It is precisely
because these values are so broad ranging that they can
encompass the variety of tasks and settings that come under the
umbrella of ‘social work’. They are relevant to the ‘caring profes-
sional’ who is in a relationship of trust with a service user in need
of help. Yet this description has never adequately characterised
social work, which may also be about controlling people in the interests
of social order. So, not only do the traditional social work values
fail to characterise social work uniquely, they also fail to encompass
social work itself completely. Other values also seem relevant, such
as fairness in the distribution of resources and the promotion of the
public good. As state-sponsored social work changes, with the
emphasis less on the individual helping relationship and more on the
distribution of resources and on social control, this is becoming
more apparent. State social workers who are involved in the criminal
justice system, community care, child protection and mental
health are finding themselves working to an increasing number of
legal, governmental and agency procedures and guidelines. This
brings ethical issues around justice and fairness to prominence. At
the same time, workers in specialist services that are often located
in the voluntary (not-for-profit) sector, such as child advocacy or
AIDS/HIV counselling, can operate more easily within the traditional
casework value system that emphasises the self-determination
of service users (or its modern development, ‘empowerment’) and
the rights and welfare of individuals.

Terminology: ‘social work’, ‘social workers’ and ‘service users’

There are many definitions of social work. These vary in emphasis
according to the purpose for which they are written, the ideological
viewpoint of the authors, the country and/or organisation of origin
and the level of generality or detail. As Healy (2001, p. 80)
comments, there are both striking similarities and differences in
social work practice around the world. Some of the similarities are
due to the influence of American and western European education
programmes and literature in countries where social work developed
later or was influenced by former colonial links. The establishment
of international professional organisations and the growing ease of
global communications have also contributed to an increasing
awareness of common and inter-connected issues and problems. Yet,
at the same time, as social work has become established in a range
of countries, so its methods and approaches have adapted to the local
conditions and culture. So while it is possible for the International
Federation of Social Workers (IFSW) to produce a definition of
social work that is designed to be applicable worldwide, it is a very
general statement of purpose and principle. It is acknowledged that
the priorities of social work will vary between countries and time
periods, depending on cultural, historical and socio-economic
conditions. The IFSW (2000) definition will, however, be used as a
starting point for this book:
The social work profession promotes social change, problem
solving in human relationships and the empowerment and liberation
of people to enhance well-being. Utilising theories of human
behaviour and social systems, social work intervenes at points
where people interact with their environments. Principles of human
rights and social justice are fundamental to social work.
The purpose of this statement is to unify social workers around
the world and to provide a common starting point for presenting
social work to governments and other international and national
agencies and bodies. The term ‘profession’ is used to describe
social work, which instantly gives the occupation a status and
implied unity. Reference is made to the use of theories relevant to
social work interventions, which again serve to legitimise social
work as a profession, based on a body of knowledge. Implicit in
this is the fact that the theories need to be learnt through an educational
process and applied through expertise. The definition also
focuses on the purposes of social work, which include the terms
‘social change’, ‘empowerment’ and ‘liberation’. These terms indicate
that social work is about more than just helping people to
adapt to their environments. It is about enabling them to take
action for themselves. The fact that the definition explicitly refers
to principles as fundamental highlights the importance of social
workers having a commitment to a set of core values. The mention
of ‘human rights’ and ‘social justice’ covers both issues of individual
freedom of choice and action and the distribution of power
and resources in society.
The term ‘social worker’ is used in this book to refer to people
who are paid in a professional capacity to undertake the work just
described. The IFSW definition is followed by a commentary,
which includes a fuller description of social work practice,
suggesting that ‘interventions range from primarily person-focused
psychosocial processes to involvement in social policy, planning
and development’. It is important to note that some of the activities
that form part of these interventions (such as counselling or
helping people obtain services and resources in the community)
may be carried out by people who are not social workers (volunteers,
family members, other welfare professionals). But the loca-
tion of the interventions undertaken by social workers within a
rubric of theory and specialised terminology indicates that the
practices will only be recognised as social work if they can be
constructed in this way.
I have tended to adopt the term ‘service user’ or simply ‘user’ to
refer to the people who use social work services. I prefer this to
‘customer’ or ‘consumer’ as these terms have connotations of choice
and market-based relationships that are not necessarily appropriate
in social work. Occasionally the term ‘client’ is used, as this was
until recently in common usage and some of the social work literature
uses this term. I have tended to use ‘she’ when I am referring
to a social worker instead of the more cumbersome ‘he/she’.
Terminology: ‘ethics’ and ‘values’
It is also important to clarify the terms in the title of the book –
‘ethics’ and ‘values’. People use the term ‘ethics’ in a number of different
ways, but perhaps the most important distinction to make is
between ethics as synonymous with moral philosophy and ethics as
moral norms or standards. Within each of these two broad types of
usage there are also many variations, depending on what aspects of
moral philosophy are stressed and whether ‘moral norms’ are seen
as habits, preferences, rules, standards, principles or character traits,
for example.
If we take the first usage of ethics, as moral philosophy, it is a
singular term, used to describe a branch of philosophy concerned
with the study of ‘morality, moral problems and moral judgements’
(Frankena, 1963, p. 3). This is the way most moral philosophers
writing on ethics use the term. For example, Warnock (1998, p. 7)
talks of ‘ethics (or moral philosophy, as I prefer to call it)’. The
nature and remit of moral philosophy is, of course, disputed. But
often philosophers distinguish three types of ethics as follows:
1. Metaethics – comprises critical and analytical thinking about the
meaning and use of moral terms such as ‘right’, ‘good’ or ‘duty’,
about whether moral judgements can be justified or what the
nature of morality is, for example.
2. Normative ethics – attempts to give answers to moral questions
and problems regarding, for example, what the morally right
course of action in a particular case is, whether someone is a
morally good person or whether lying is always wrong.
3. Descriptive ethics – studies what people’s moral opinions and
beliefs are and how they act in relation to these – for example,
whether people in Britain believe abortion is always morally
wrong.
Some philosophers confine moral philosophy to metaethics only
(for example, Urmson, 1975, p. 99), but generally it is regarded as
comprising both metaethics and normative ethics, although some
philosophers may inevitably spend more of their time on the former
than the latter. Descriptive ethics, however, is usually regarded as
outside the realm of moral philosophy, although not irrelevant, in
that it comprises the kinds of empirical and historical inquiries that
might be conducted by anthropologists, sociologists or historians.
Clearly in the context of professional ethics, we are interested in all
three aspects of ethics, including descriptive ethics (what moral
views social workers actually hold and how they behave in practice),
although the purpose of this book is not to conduct an empirical
inquiry.
The second usage of the term ‘ethics’ is as a plural term referring
to the norms or standards of behaviour people follow concerning
what is regarded as good or bad, right or wrong. Commentators vary
according to whether they regard ethics as norms, standards, rules,
principles or character traits and whether they regard them as internally
developed by the moral agent or externally imposed by an
outside authority. A common use of this second sense of ethics is in
the expression ‘code of ethics’ – which is usually regarded as a set
of principles, standards or rules of conduct for ethical practice. A
variant on this usage of ethics is to use the term synonymously with
‘morality’ to mean a system of moral norms or standards.
In English we often use the terms ‘ethics’ and ‘morals’ interchangeably
in this second sense. Indeed, as Edwards (1998, p. 41)
points out, ‘morals’ is derived from the Latin (mores) and ‘ethics’
from the Greek (ethos), both meaning habits or customs. It is in this
interchangeable sense that I will use the terms ‘ethics’ and ‘morals’
in this book, along with the adjectives ‘ethical’ and ‘moral’.
However, it is important to point out that some commentators do
distinguish between the two. Osborne (1998, pp. 221–2) makes the
following distinction:
Moral systems are systems of interdiction; they are ideologies,
codes to which individuals must relate themselves. Ethics, on the
other hand, might be considered in a more positive sense, not as
codes of interdiction, not as external norms to which individuals
must relate themselves, but as constructed norms of ‘internal
consistency’ (cf. Deleuze, 1988: 23; Foucault, 1984). Morality, one
could say, is about doing one’s duty to others or doing one’s duty
by some moral norm; ethics is about doing one’s duty to oneself.
This has resonances with the distinction made in some of the
French literature between ‘la morale’ and ‘l’éthique’. Bouquet
(1999, p. 27) defines ‘la morale’ as ‘a set of universalisable values,
absolute and imperative; it comprises duties’. She suggests that the
term has become discredited through being confused with moralising
and through the recent rejection of a prescriptive morality, of
dogmatism and universalism. Common usage is now substituting the
term ‘éthique’ for ‘morale’. She regards ‘l’éthique’ as equally
normative, but not categorical. It is principally associated with the
subject and interior to the subject (that is, the moral agent) who is
autonomous, free and responsible to herself for her acts. Bouquet
defines ‘l’éthique’ as ‘the set of principles which are at the foundation
of each person’s conduct’.
However, such distinctions in the English-speaking literature are
less common and great care must be taken to ascertain how commentators
are distinguishing ‘ethics’ and ‘morals’, if at all, since
they do not all follow the same broad distinctions made by Osborne
and Bouquet. For example, Bauman frequently talks of ‘ethics’ as
the externally imposed codes prescribing correct behaviour universally
(1995, p. 11) and the ‘moral impulse’ or ‘morality’ as internal
and ‘autonomous’ (1993, p. 46). No such distinctions will be made
in this book.
The term ‘values’ is equally problematic. ‘Social work values’,
‘the value-base of social work’, ‘social work as a value-laden
activity’ are all common phrases in the social work literature. Yet
what is meant by ‘the values of social work’? ‘Values’ is one of
those words that tends to be used rather vaguely and has a variety of
different meanings. Timms (1983, p. 107) cites a literature review
that discovered 180 different definitions. In everyday usage,
‘values’ is often used to refer to one or all of religious, moral,
cultural, political or ideological beliefs, principles, attitudes, opinions
or preferences. For our purpose, ‘values’ can be regarded as
particular types of belief that people hold about what is regarded as
worthy or valuable. In the context of professional practice, the use
of the term ‘belief’ reflects the status that values have as stonger than
mere opinions or preferences.
Clearly there are many different types of thing that can be
regarded as valuable. Seedhouse (1998, p. 78) lists: physical objects
(for example furniture); aesthetic qualities (for example beauty);
intangibles (for example creativity); principles (for example truth
telling); or ideologies (for example communism). In the literature
on professional values, it is frequently principles, and particularly
ethical principles, relating to how people should be treated, what
ideas or actions are worthy or unworthy, good or bad, right or
wrong that are regarded as values. For example, the IFSW (2000)
definition of social work includes ‘respect for the equality, worth,
and dignity of all people’, ‘human rights’ and ‘social justice’ under
the heading of ‘values’. However, some of the literature also
includes what Seedhouse calls ‘intangibles’ as professional values,
such as creativity or integrity, which we might regard as ‘virtues’
or character traits of workers. Furthermore, there is an increasing
tendency to distinguish ‘values’ from ‘principles’ in some statements
on professional ethics (for example, Australian Association
of Social Workers, 1999; British Assocation for Counselling and
Psychotherapy, 2001; British Association of Social Workers, 2002),
with ‘values’ being used to encompass broad beliefs about the
nature of the good society and the role of social work within this
(belief in human dignity and worth, integrity in social work practice)
and principles being general statements about actions that
promote these values (treating people with respect, placing service
users’ needs first). I will use the term ‘social work values’ in a very
broad sense to encompass this whole range of beliefs about what is
regarded as worthy or valuable in a social work context (general
beliefs about the nature of the good society, general principles about
how to achieve this through actions and the desirable qualities or
character traits of professional practitioners).
Professional values can be distinguished from personal values, in
that personal values may not be shared by all members of an occupational
group. For example, a person who works as a social worker
may have a personal belief that abortion is wrong, but this is not
one of the underlying principles of social work. Insofar as professional
values are located within and influenced by broader societal
values, then they may reflect particular ideological or political positions
(for example liberalism). But lists of professional values do
not usually include direct or overt statements of ideological or political
beliefs. Employing agencies’ values are usually similar to those
of the profession as a whole, although some specialist organisations
may include explicit religious or ideological beliefs. A worker’s
personal values, however, will encompass all of Seedhouse’s range
of categories and may include religious as well as aesthetic and
ideological beliefs.

Rationale and aims of the book
The discussion thus far suggests that it is both timely and difficult
to explore the nature of the ethical and value issues inherent in social
work practice. It is timely not just because the old values are under
threat, but also because social workers themselves are increasingly
under moral attack from the press and public for the outcomes of
their actions. Controversies over the handling of child abuse cases,
for example, raise ethical questions about the duties and rights of
social workers and the extent to which they should be blamed if a
child dies or if children are removed from their families unnecessarily.
Many social workers feel a sense of guilt and anxiety when
having to make a difficult ethical decision. While such feelings are
inevitable for anyone who makes difficult decisions and has a sense
of moral responsibility, should social workers take all the blame for
bad outcomes? One of the purposes of this book is to encourage
social workers to be clear about their own value positions and hence
to reduce some of the unnecessary feelings of guilt, blame and
anxiety in making difficult ethical decisions.
In the course of collecting material for this book, I have found
that when social workers are asked to describe ethical dilemmas in
their practice, there is never any shortage of examples and there is
no need even to define what is meant by an ‘ethical dilemma’. If we
do define what is meant by the term ‘ethical dilemma’ – a choice
between two equally unwelcome alternatives relating to human
welfare – then it is immediately apparent that the occurrence of
ethical dilemmas in social work is serious and common. There is
never any shortage of cases where the rights of parents have to be
balanced against the rights of children or the social worker’s duty to
the agency conflicts with a duty to the service user, for example.
There are no easy answers to the ethical problems and dilemmas
in social work practice. It is not possible (or desirable) to produce a
rulebook that would enable social workers easily and quickly to
resolve these dilemmas. Even if it were, the resolution of the
dilemma will still entail making a choice between two unwelcome
alternatives, perhaps by careful consideration and deciding that one
alternative is less unwelcome than the other. Having made the
choice, the impact of the dilemma does not go away, for even the
least unwelcome alternative is still unwelcome. The resolution of a
dilemma often leaves a residue of guilt, blame or regret. This is
where some of the main stresses for social workers lie; not just in
having to make difficult choices and decisions, but having to take
responsibility for the unwelcome nature or outcomes of the decisions.
For example:
Peter is a 10-year-old boy whose parents are still barely able to
control him after a lot of support from a social worker and a range
of professionals from other agencies. Should the social worker
recommend that Peter be removed from the parental home, a
decision that would go against the wishes of Peter and his parents
and might cause further disruptive behaviour as a result of the
move? Or should she recommend that he stay at home, a course of
action that is contrary to the demands coming from neighbours and
the school and risks further violent and disruptive behaviour
towards other children and neighbours?
Both solutions have unwelcome consequences. The process of
investigation, taking into account the legal and moral rights of
different parties, the risks involved in both courses of action and the
legal, procedural and moral responsibilities of the social worker is
a complex one. Whatever course of action is taken, somebody’s
rights may be compromised and some of the consequences may be
unwelcome.
The aim of this book is not to tell social workers how to make
such choices – I believe that would be both impossible and undesirable.
It is impossible because of the complexity of social work
decision-making; no rulebook could cover the variety of situations.
It would be undesirable because it would suggest that social workers
would simply have to follow the prescribed rules applying in each
case and could in effect abrogate their individual responsibility for
decision-making. Rather, the book aims to encourage critical thinking,
reflection and reflexivity through exploring the nature of the
ethical problems and dilemmas in social work, how and why they
arise and what might be some alternative ways of tackling them
according to different ethical theories and approaches. Through
gaining a clearer understanding of what the problems and dilemmas
are about, social workers should be able more readily to decide
where they stand on some of the important ethical issues in the work
and will have more confidence in justifying the decisions they have
made and may feel less obliged to take the blame for the inevitable
unwelcome outcomes of social work intervention.
At the end of each chapter, exercises have been included that can
be used by readers to focus their thoughts around particular issues
or by tutors/facilitators teaching or working with groups of social
workers. Case studies drawn from accounts given by social work
students and practitioners have also been used, mainly in Chapter 7,
to illustrate how ethical problems and dilemmas arise and can be
tackled in practice. Details of the cases and all names of people
involved have been changed to preserve anonymity.

Niềm vui

Niềm vui

Thấu cảm

Thấu cảm

Thấu cảm

1. Thấu cảm (empathy) là thành phần cơ bản của trí tuệ xúc cảm (Goleman, 1996); đa chiều kích, tiến trình tri thức luận (epistemology) phức tạp, và là cách thức am hiểu cả hệ thống cảm xúc lẫn nhận thức của người đời (Bohart & Greenberg, 1997; Duan & Hill, 1996; Feschbach, 1997).Theo các nhà lý thuyết tâm lý học phát triển, thấu cảm là năng lực hình thành từ lúc mới sinh và biến chuyển qua thời gian khi các hệ thống nhận thức và xúc cảm của con người chín muồi.Edward Titchner-- đồ đệ trung kiên nhất của Wilhelm Wundt (1832- 1920)-- đã chuyển dịch thuật ngữ "empathy" từ tiếng Đức einfuhlung: "cảm nhận theo cách thức của người" ("feel one's way into"). Đó là lối dùng nguyên thủy trong Mỹ học Đức, mang nghĩa tiếp cận để hiểu một tác phẩm nghệ thuật đặc thù.Về sau, thấu cảm được Rogers (1965, 1975) và Kohut (1971, 1977) sử dụng cho việc mô tả cách hướng tới người khác nhằm tăng cường khả năng chữa lành trong tâm lý trị liệu.Theo các tác giả de Vignemont & Singer (2006), có hai xu hướng trong tài liệu nghiên cứu về thấu cảm.Thứ nhất, định nghĩa bao quát: thấu cảm xảy ra khi một đáp ứng xúc cảm nhiều thích đáng hơn với người khác. Thứ hai, định nghĩa thấu cảm thu hẹp lại- được Vignemont & Singer ưa thích-, thỏa mãn các yêu cầu sau:@ Bạn cảm thấy một trạng thái cảm xúc riêng biệt;@ trạng thái này cảm nhận tương đồng đối với bạn và "mục tiêu" thấu cảm của bạn, dù do những nguyên nhân khác nhau;@ thấu cảm xuất phát từ việc bạn giám sát hoặc tưởng tượng về trạng thái xúc cảm của mục tiêu;@ bạn nhận ra trạng thái xúc cảm của mình là kết quả của sự thấu cảm.De Vignemont & Singer (2006) khẳng định rằng, định nghĩa này cho phép phân biệt giữa thấu cảm và cách tiếp cận nhận thức.Các định nghĩa về thấu cảm vừa nêu dựa trên giả thuyết về cách thức chúng ta kiểm soát sự thấu cảm của bản thân.Mỗi cá nhân khác biệt nhau, song nhìn chung thì chúng ta hành động thấu cảm theo vô thức cùng những đối tượng xung quanh, hay còn bao gồm một số phụ trội khác nữa? Mô hình tiến trình đánh giá khẳng định chắc chắn rằng, có nhiều mức độ hành động vô thức đối với quy trình xúc cảm.Theo lý thuyết này, các thành phần tri giác có thể dẫn trực tiếp, và hoàn toàn vô thức, vào các tiến trình đánh giá, rồi từ đó tạo ra đáp ứng xúc cảm.Báo cáo khoa học thần kinh của de Vignemont & Singer (2006) hỗ trợ cho giả thuyết này. Nhiều nghiên cứu phát hiện, khi người ta nhìn những kẻ hoàn toàn xa lạ đang trải qua đau đớn, thì não của họ kích hoạt đáp ứng theo kiểu thấu cảm đặc trưng (Morrison, Lloyd, di Pellegrino & Robert, 2004).Song như de Vignemont & Singer (2006) chỉ ra, sự thấu cảm không phân biệt này phải được điều chỉnh bởi các yếu tố môi trường, nếu không thì đời sống xúc cảm của chúng ta có thể là một thứ hỗn độn bất tận.Tương tự thế, mô hình tiến trình đánh giá không chỉ dựa vào tri giác như đầu vào duy nhất cho các đáp ứng xúc cảm, mà nó còn xem xét đến "những sự trình diễn được kích hoạt liên quan khác" và "những nội dung của tiêu điểm nhận thức".Thứ nữa, và điều này rất quan trọng đối với mô hình tiến trình đánh giá, de Vignemont & Singer (2006) khẳng định rằng, thấu cảm có thể là "nhanh chóng và hàm ý". de Vignemont & Singer (2006) cũng khẳng định, một tập hợp phân loại có thể giúp lý giải tại sao nhiều người chúng ta thấu cảm với người khác trong một số bối cảnh này nhưng lại không thấu cảm ở những bối cảnh khác:@ Các yếu tố xúc cảm nội tại, ví dụ, một số xúc cảm có thể được nội tâm thật dễ dàng để thấu cảm cùng;@ Các yếu tố quan hệ; như lý thuyết đánh giá của de Vignemont & Singer (2006) chỉ ra: mối quan hệ giữa người thấu cảm và mục tiêu sẽ có một hiệu ứng thiết yếu;@ Sự khác biệt cá nhân;@ Các yếu tố tình huống.Mô hình tiến trình đánh giá xác quyết một mẫu thức sớm của sự đánh giá. Điều này nghĩa là, cả dấu hiệu xúc cảm lẫn bối cảnh đều được minh định bởi các tiến trình đánh giá trước khi một đáp ứng xúc cảm được tạo ra.Sự biến đổi khác là một mô hình muộn, bao gồm liên kết trực tiếp từ một dấu hiệu xúc cảm tới một đáp ứng xúc cảm, do đó, đi vòng quanh các tiến trình đánh giá. De Vignemont & Singer (2006) cho thấy, hiện tại có rất ít bằng chứng phân biệt giữa hai cách thức trên.Bất kể tiến trình tạo thấu cảm ra sao, điều rõ ràng là thành phần cốt tử của chức năng hiệu ứng xã hội. Ngay cả sự cốt tử thế nào còn là đối tượng gây tranh cãi chưa thôi. Nhiều nhà nghiên cứu đề nghị, thấu cảm làm tăng hành vi hướng đến xã hội. De Vignemont & Singer (2006) khẳng định rằng, thấu cảm làm tăng sự thấu hiểu xã hội và tương tác xã hội; ngược lại, thiếu vắng thấu cảm tạo nên hành vi xung hấn và chống đối xã hội.Thực tế nghiên cứu từ 1940 đến nay cho thấy, không ít lý thuyết gia nhìn thấu cảm như là kỹ năng quan hệ cơ bản. Để truyền thông liên nhân cách diễn ra, đòi hỏi một mức độ thấu cảm nào đó nhằm hiểu người khác chí ít ở mức độ căn bản nhất.Tuy vậy, có nhiều tầm mức hiểu biết khác nhau và nhiều kiểu loại tiến trình thấu cảm khác nhau.Một người có thể biết kẻ khác nhờ nắm được ý nghĩa trí năng của anh/ chị ấy và bởi việc thấu hiểu các giá trị, thế giới quan, mục tiêu và mục đích của anh/ chị ấy; song để thực sự thấu cảm, sự hiểu biết này cần được định hình bởi sự biết hoặc hiểu cách thức các sự việc tác động đến người khác về mặt xúc cảm như thế nào.Cảm xúc của người đời tỏ lộ sự quan trọng hoặc ý nghĩa của các sự kiện đối với họ; do đó, để hiểu và biết người khác, ta phải đáp ứng đầy xúc cảm với họ.2. Với Carl Rogers, thấu cảm là một trong ba điều kiện căn cốt nhà trị liệu dành cho thân chủ trong tâm lý trị liệu.Hai điều kiện kia là trung thực, thích đáng (congruence), và tôn trọng tích cực vô điều kiện (unconditional positive regard) hoặc thái độ không đánh giá (nonjudgmental stance) về người khác.Rogers không nghĩ rằng người ta có khả năng thấu cảm tràn đầy và hoàn bị với kinh nghiệm của kẻ khác, nếu ai đó lượng giá họ một cách tiêu cực.Hơn nữa, như quan sát của các nhà lý thuyết phát triển, dường như người ta càng không thể thấu cảm thực sự nếu anh/ chị ta cảm nhận thù địch hoặc tức giận hướng đến người khác (Feschbach, 1997).Do đó, để thấu cảm mang tính trị liệu, thấu cảm cần xảy ra trong một khí hậu đồng cảm, an toàn và không đánh giá mà ở đó thân chủ cảm thấy được xem trọng. Ngoài ra, điều quan trọng là nhà trị liệu phải tỏ ra trung thực, thích đáng khi họ trải nghiệm sự thấu cảm.Rogers (1965) định nghĩa thấu cảm như là khả năng tri nhận một cách chính xác khung tham chiếu nội tại của người khác, tức là các ý nghĩa và các cấu thành cảm xúc của họ.Định nghĩa này nhấn mạnh thấu cảm ở cả hai mặt tiến trình xúc cảm và nhận thức. Rogers xem thấu cảm như khả năng nhìn thấy thế giới thông qua con mắt của kẻ khác đến độ cảm được nỗi đớn đau, phiền muộn và nhận ra nguồn xúc cảm của họ y như cách thức họ cảm nhận.Bằng sự tôn trọng này, ông phân biệt cẩn thận tính đồng nhất và sự thấu cảm: đồng nhất cho thấy sự thiếu vắng các ranh giới khi ai đó chấp nhận quan điểm thực tiễn của người khác.Một cách để Rogers khẳng định nhà trị liệu có thể biểu lộ sự thấu cảm, là thông qua nỗ lực phản ánh các xúc cảm của thân chủ. Tuy thế, hoạt động này thường bị hiểu nhầm chỉ là việc lặp lại như con vẹt những từ ngữ và điều sau rốt thân chủ nói (Rogers, 1975).Quan điểm như thế phản ánh cách hiểu sai lệch về sự đáp ứng thấu cảm- là cách thức hiện diện vô cùng tinh tế và phức tạp cùng với thân chủ.Lắng nghe một cách thấu cảm là sự thực tập đòi hỏi kiên nhẫn và nặng nhọc; có như thế, mới chạm đến điểm mấu chốt trong những truyền thông của thân chủ, và mới chắt lọc được từ các thông điệp của thân chủ yếu tính quan trọng nhất.Nghiên cứu chứng tỏ, thấu cảm mang tính trị liệu có tương quan với mức độ nhận thức phức hợp của nhà trị liệu. Chú tâm lắng nghe để nhận ra các sắc thái trong các câu chuyện kể của thân chủ là bài luyện tập tinh tế về sự giải cấu trúc chính yếu mà mỗi khoảnh khắc đòi hỏi tập trung ghê gớm.Trong bài báo ấn tượng năm 1975, Rogers trở lại chủ đề thấu cảm và gắng định nghĩa nó chính xác hơn: ông xem thấu cảm như tiến trình, chứ không phải trạng thái sống. Do vậy, đó là nỗ lực không ngừng bước vào thế giới riêng tư, chủ quan của người khác, cùng lúc đấy phải thật nhạy cảm nhằm nắm bắt những thay đổi đầy ý nghĩa đủ để theo dấu họ một cách xác đáng.Tiến trình cố gắng thấu hiểu thế giới chủ quan của người khác được thực hiện với sự chú ý cẩn trọng, để phát hiện các sắc thái ý nghĩa của cảm xúc mà chủ thể xem chừng không nhận thức thật đủ đầy. Dẫu thế, điều này không có nghĩa là tiết lộ hoặc báo cáo về các cảm nhận người ta đã không nhận thức được.Đúng hơn, gắng hiểu những gì thân chủ đang nói luôn luôn là tiến hành mang tính thử nghiệm và không ngừng kiểm tra lại chúng. Thân chủ vẫn mãi là người có thẩm quyền tối thượng, bất kể nhà trị liệu đã hiểu họ thật đúng đắn hoặc nắm bắt được điều họ đã không nhận ra đủ đầy.Rogers (1975) xem thấu cảm như là cách thức gợi lên sự tự thay đổi trực tiếp và trao quyền hành cho con người. Do đó, ông đã bỏ công sức nhằm không hiện diện trước thân chủ với tư cách chuyên gia trong trị liệu đủ để thân chủ có thể đảm nhận trách nhiệm cho những tiến trình và thay đổi hành vi của chính họ, và tiến tới nhìn nhận bản thân họ như là người quyết định sáng giá, đúng đắn nhất về những cảm xúc và nhu cầu riêng tư của chính mình.3. Sau giả thuyết cơ bản của Rogers về ba điều kiện cần và đủ để sự thay đổi mang tính trị liệu xảy ra (thấu cảm, tôn trọng tích cực vô điều kiện và thích đáng), hai công cụ thông dụng nhất đã được cải tiến để đo lường thấu cảm là Accurate Empathy Scale (Truax & Carkhuff, 1967) và Relationship Inventory (Barrett- Lennard, 1962).Rất nhiều nghiên cứu đã tìm hiểu về mối quan hệ giữa thấu cảm và kết quả trị liệu; và không có nghiên cứu nào chỉ ra quan hệ tiêu cực giữa chúng; ngược lại, đa phần các nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tích cực giữa hai biến số này (Gladstein, 1977; Gurman, 1977; Orlinsky và cs., 1994). Không ít nghiên cứu gắng định dạng mối tương quan giữa hành vi và thấu cảm (Barkham & Shapiro, 1986; Barrington, 1961; Bergin & Jasper, 1969; Caracena & Vicory, 1969; D'Augelli, 1974; Gardner, 1971; Heabe & Tepper, 1972; Truax, 1966; Westerman, Tanaka, Frankel, & Khan, 1986), thông qua 4 lĩnh vực khác nhau có liên quan với sự truyền thông thấu cảm: hành vi không lời của nhà trị liệu, đặc trưng phát ngôn của nhà trị liệu, phương thức đáp ứng của nhà trị liệu, và tính cách cá nhân của nhà trị liệu.Gần đây hơn, các nhà nghiên cứu Boston (2007) đã dùng công nghệ để đo lường thấu cảm giữa nhà trị liệu và bệnh nhân của họ.Theo các nhà tâm thần học Harvard, thì đây là nghiên cứu đầu tiên về sinh lý học của việc chia sẻ cảm xúc trong suốt các lần trị liệu. Và họ đã khám phá ra bằng chứng về nền tảng sinh học của những mối kết nối thấu cảm.Rằng, nghiên cứu của họ khẳng định: các nhà trị liệu tri nhận như là người nhiều thấu cảm hơn thì càng có nhiều trải nghiệm cảm xúc tích cực với các bệnh nhân. Rằng, sự thiếu vắng thấu cảm là dấu chỉ lớn nhất về kết quả tồi tệ cho bệnh nhân trong tâm lý trị liệu; tuy thế, thấu cảm không phải là toàn bộ câu chuyện, nó chưa đủ để quyết định kết quả trị liệu.Điều mà các nhà nghiên cứu trên không nêu ra trong báo cáo đã công bố là việc họ cho biết thêm: mức độ hòa hợp sinh lý giảm đi ít nhiều khi nhà trị liệu nói thay vì lắng nghe. "Điều này khẳng định rằng, thật là khó khăn để các nhà lâm sàng thấu cảm khi họ đang nói."Vậy, có thể hữu ích việc thân chủ sử dụng điều này như là cơ chế phản hồi sinh học giúp cho các nhà lâm sàng tăng cường khả năng thấu cảm của họ. Và dĩ nhiên, cần ghi nhớ là khi chúng ta nói chúng ta trở nên kém thấu cảm.Trong trị liệu, một số kiểu đáp ứng thấu cảm đã được định hình, gồm: đáp ứng hiểu biết thấu cảm; khẳng định thấu cảm; gợi nhớ thấu cảm; khám phá thấu cảm; và ước đoán thấu cảm (Greenberg & Elliot, 1997; Greenberg và cs., 1993; Watson và cs., 1998).Và dưới đây trích bài báo cho thấy chỉ cần hít nhanh chất Oxytocin có thể cải thiện khả năng thấu cảm của bạn:
Nó không những là hormone chính hiệu mà còn là hormone đọc được tâm trí nữa. Hít mạnh oxytocin- chất làm nền tảng gắn kết xã hội giữa các loài động vật- giúp cho đàn ông tăng cường khả năng đọc cảm xúc của người khác.Hai năm trước, các nhà nghiên cứu báo cáo rằng, oxytocin tăng cường sự tin cậy. Giờ đây, đội ngũ nghiên cứu do Gregor Domes của Đại học Rostock- Đức đứng đầu đã khám phá một trong các thành phần cơ bản của sự tin cậy: nhận thức xúc cảm.Các nhà nghiên cứu xịt oxytocin lên mũi của 30 đàn ông và kiểm tra họ có thể đọc xúc cảm từ các bức ảnh chụp đôi mắt tốt trong những tình huống thực tế như thế nào. 20 người trong số họ đã thể hiện giỏi hơn hẳn sau khi hít oxytocin.Dome khẳng định rằng, hormone oxytocin có thể được dùng để điều trị người mắc tự kỷ- đối tượng nỗ lực đọc cho được cảm xúc của người khác.Nhân đây, cũng cần biết rằng, nhiều nghiên cứu về bắt chước cung cấp thêm bằng chứng các cá nhân mắc rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum Disorders: ASDs) phải chịu đựng sự thiếu hụt trong việc xử lý xúc cảm theo bản năng, dù họ hoàn toàn có khả năng bắt chước một cách ý thức các xúc cảm.Điều này tương hợp với các nghiên cứu thực hiện đối với người không có khả năng diễn đạt hoặc định dạng cảm nhận xúc cảm (alexithymia), những đối tượng cũng gặp vấn đề xử lý vô thức về xúc cảm, dù họ có thể mô tả cảm xúc một cách rõ ràng ở bình diện trung tâm ý thức.* Tóm lại, như phát biểu của Jeane C. Watson, để thực sự thấu cảm tràn đầy, nhà trị liệu phải nhận thức về những gì đang xảy ra ở từng khoảnh khắc một trong mối liên hệ của họ với thân chủ, và hiểu biết về logic xúc cảm của thân chủ.Fiedler (1950) phát hiện thấy rằng, những nhà trị liệu mới vào nghề hiểu biết thân chủ một cách trí năng mà không theo hướng xúc cảm; họ nghĩ ngợi thật khó khăn để hướng theo các dòng suy tư của thân chủ.Theo ý bà Watson, hiểu biết một cách trí năng là thấu hiểu trên bề mặt ý nghĩa những gì thấu chủ đang tỏ lộ. Thấu cảm đủ đầy thu góp ý nghĩa, cảm xúc, và yếu tính những trải nghiệm của thân chủ. Nó đòi hỏi nhà trị liệu hòa trộn bản thân vào trải nghiệm của người khác- nếm, ngửi, cảm nó nhằm thu hẹp, gom góp lại các bờ vực và khía cạnh hàm ẩn của nó.Nhà trị liệu- bà Watson nói- cần có khả năng đáp ứng thật hòa hợp với thân chủ và hiểu họ ở mặt xúc cảm lẫn mặt nhận thức.Khi thấu cảm được khai triển ở cả 3 mức độ- liên nhân cách, nhận thức và xúc cảm- thì nó là một trong những công cụ đầy quyền lực mà nhà trị liệu tùy ý sử dụng nhằm đem lại lợi lạc cho chính thân chủ của mình.----------Tài liệu tham khảo chính:Humanistic Psychotherapies- Handbook of Research and Practice, (2001), pp.445- 471.
Theo http://caitoi.blogspot.com/search/label/Tham%20v%E1%BA%A5n%20T%C3%A2m%20l%C3%BD

Chân dung của những Nhân viên xã hội hiện đại


Chân dung của những Nhân viên xã hội hiện đại

Hiện nay, những người làm công tác xã hội được gọi với nhiều tên khác nhau: Nhân viên xã hội, Cán sự xã hội, Cán bộ xã hội. Các nước trên thế giới thường dùng phổ biến tên gọi là Nhân viên xã hội (hay Nhân viên làm công tác xã hội).
Người làm công tác xã hội chuyên nghiệp được gọi là Nhân viên xã hội chuyên nghiệp. Nhân viên xã hội chuyên nghiệp được đào tạo chuyên nghiệp ở các trường Công tác xã hội từ trình độ sơ cấp, trung cấp, cử nhân đến thạc sỹ, tiến sỹ.

Nhân viên Công tác xã hội chuyên nghiệp làm việc tại các cơ sở, tổ chức thuộc lĩnh vực an sinh xã hội (lĩnh vực lao động - xã hội, an sinh trẻ em và gia đình…); các lĩnh vực có liên quan như giáo dục, y tế, pháp luật, văn hoá, truyền thông và các cơ quan của các tổ chức đoàn thể và tổ chức xã hội khác.

Ở một số nước, nhân viên xã hội làm việc trong các trường học, bệnh viện, toà án... có ý nghĩa quan trọng trong việc đóng góp vào sự phát triển xã hội. Chẳng hạn, công tác xã hội học đường hỗ trợ các gia đình và các nhà quản lý giáo dục trong việc hỗ trợ can thiệp sớm và trong giáo dục cá biệt, tạo mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình và cộng đồng. Trong các nhà tù, nhân viên quản giáo được đào tạo về công tác xã hội để giáo dục, cảm hoá phạm nhân. Trong các bệnh viện, nhân viên xã hội hỗ trợ bệnh nhân giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh (tâm lý, tài chính, chỗ ở...). Trong các doanh nghiệp, nhân viên xã hội phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn, xung đột trong tập thể lao động và hỗ trợ tâm lý trong những trường hợp cần thiết...

Công tác xã hội là một ngành có mối quan hệ với nhiều ngành, nhiều cơ quan, tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau, nên nhân viên xã hội khi tiến hành các hoạt động cung cấp dịch vụ cho đối tượng thường phải thực hiện nhiều vai trò khác nhau. Đôi khi nhân viên xã hội chỉ thực hiện một vai trò; nhưng có lúc, có trường hợp nhân viên xã hội phải đóng nhiều vai trò khác nhau. Nhân viên xã hội thường có những vai trò sau:

Vai trò người môi giới (Broker): Nối kết đối tượng với các nguồn lực bên ngoài. Để thực hiện vai trò này, nhân viên xã hội phải biết nguồn lực của xã hội, đánh giá nhu cầu của đối tượng đối với các nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Nhân viên xã hội phải hết sức năng động, sáng tạo trong việc tìm nguồn tài nguyên và tạo nên mối liên kết giữa đối tượng với nguồn tài nguyên đó.

Vai trò người tạo điều kiện (Enabler): Giúp cho đối tượng giải quyết vấn đề, tạo điều kiện cho đối tượng tham gia vào quá trình tự giải quyết vấn đề của chính họ bằng những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của nhân viên xã hội. Ví dụ, nhân viên xã hội giúp cho người vợ hay người chồng làm chủ được cảm xúc để họ có thể làm những công việc thuộc vai trò của họ; hay nhân viên xã hội cung cấp các thông tin về các nguồn tài nguyên khác nhau và cách thức có thể tiếp cận được nguồn tài nguyên này để đối tượng chủ động tìm đến các nguồn tài nguyên đó.

Vai trò người giáo dục (Educator): Chuyển các thông tin một cách tốt nhất đến đối tượng hoặc thực hiện các vai trò giáo dục khác nhau trong quá trình giúp đối tượng giải quyết vấn đề, như giáo dục làm chuyển đổi hành vi, nhân cách người nghiện ma tuý, hay giáo dục phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng...

Vai trò người biện hộ cho đối tượng (Advocater): Nhân viên xã hội đại diện cho nhu cầu của đối tượng, biện hộ cho đối tượng trong những trường hợp liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích của đối tượng mà các quyền và lợi ích này đã được pháp luật ghi nhận hoặc được xã hội thừa nhận.

Vai trò người trung gian (Mediator): Giúp cho một hay nhiều đối tượng cùng thấy một quan điểm chung và giúp họ cùng hiểu quan điểm của nhau, thường làm công việc này đối với gia đình hoặc một nhóm.

Ngoài ra, nhân viên xã hội còn đóng các vai trò làm các công việc quản lý thuộc chức trách được giao, công tác nghiên cứu và đề xuất ý kiến cho việc soạn thảo chính sách.

Như vậy, trong hoạt động cung cấp các dịch vụ cho đối tượng, nhân viên xã hội phải đảm đương nhiều vai trò khác nhau, các vai trò này có những tác động qua lại nhau, đôi khi có một số vai trò thật khó khăn cho nhân viên xã hội. Lúc đó, nhân viên xã hội cần tìm kiếm các sự giúp đỡ từ đồng nghiệp khác hoặc từ cơ quan trực tiếp quản lý anh ta. Đây là những thách thức đối với nhân viên xã hội khi mà nhu cầu của đối tượng, mục tiêu giúp họ rất lớn và đa dạng nhưng khả năng cung cấp nguồn tài nguyên lại có hạn, hoặc đôi khi những hạn chế từ chính nhân viên xã hội. Vì vậy, nhân viên xã hội cần có các kiến thức hiểu biết rất rộng, đa ngành và cần thông thạo các kỹ năng chuyên nghiệp để có thể tự tin và làm việc có hiệu quả cao.

Bảo Bình (Tc Người Bảo trợ)

THAM VẤN Ở VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY

THAM VẤN Ở VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY
19/04/2006
VŨ TRÙNG DƯƠNG - VCPFCI/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình phát triển xã hội hiện nay, sự hội nhập kinh tế thế giới, sự giao thoa giữa các nền văn hóa, đối thoại giữa các nền văn minh và xu thế toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam. Hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đang tạo ra những vấn đề xã hội như gia tăng khoảng cách giàu nghèo, thất nghiệp, đô thị hóa và di cư, vấn đề rạn nứt gia đình, tội phạm, các tệ nạn xã hội, gia tăng xâm hại và bóc lột trẻ em…. Công cuộc đổi mới đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đất nước song mặt trái của việc chuyển đổi sang cơ chế thị trường và lối sống thực dụng đã có tác động tiêu cực tới các gia đình ở nước ta. Việc kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, đồng thời tiếp thu các giá trị tinh hoa tiến bộ của xã hội nhằm tạo cho gia đình có sức mạnh đề kháng, chống lại mọi biểu hiện tiêu cực đang tấn công vào từng tế bào của gia đình đã đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức. Và bên cạnh đó, nhiều cá nhân và nhóm người yếm thế trong xã hội xuất hiện và cần được trợ giúp. Việc hình thành hệ thống mạng lưới dịch vụ tham vấn nhằm làm giảm bớt các tổn thương cho con người là nhu cầu và yêu cầu của xã hội. Do đó, xây dựng đội ngũ những người làm công tác xã hội chuyên nghiệp có hiểu biết về tham vấn, làm tham vấn và trở thành nhà tham vấn là việc làm thiết thực và cấp bách đặt ra đối với xã hội hiện nay. Tham vấn được xem như là một trong những dịch vụ xã hội có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần của mỗi cá nhân và gia đình. Ở Việt Nam, thuật ngữ tham vấn và tư vấn thường được hiểu là đồng nghĩa mặc dù chúng có sự khác biệt. Những người làm công tác tư vấn/tham vấn thường là các cán bộ được đào tạo về xã hội học, tâm lý học, công tác xã hội hoặc các cán bộ, giảng viên được bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng qua các khóa học ngắn hạn. II/ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY THAM VẤN Ở VIỆT NAM1/ Những vấn đề trong giảng dạy - đào tạoCó thể nói, điểm khởi đầu để nâng cao chất lượng giảng dạy - đào tạo chính là đào tại và đào tạo lại những người thày (người đi giáo dục phải được giáo dục - C. Mác) - (những người giảng dạy tham vấn phải ít nhiều biết tham vấn). Chất lượng đào tạo đội ngũ những người thày tuy đã có nhiều cố gắng song còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng giảng dạy về tham vấn của ta hiện nay không đồng đều là do xuất phát điểm căn bản được đào tạo của các giáo viên là khác nhau và thêm vào đó tham vấn vẫn còn quá mới với chúng ta. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy tham vấn.Đào tạo và đào tạo lại người thày là một trong những yếu tố cần thiết nhất để nâng cao chất lượng đào tạo. Đây là yếu tố tiên quyết tạo ra những người làm công tác giảng dạy giỏi. Việc khắc phục một trong những nhược điểm của cán bộ giảng dạy đó là tình trạng yếu kém ngoại ngữ. Chất lượng người thày phụ thuộc rất lớn vào yếu tố này, vì muốn giảng dạy hay và tốt là phải luôn cập nhật thông tin trong khi đó các tư liệu về tham vấn nhất là phần lý thuyết lại chủ yếu là các tư liệu của nước ngoài. Để có công cụ làm việc được thì những người làm công tác giảng dạy phải trang bị cho mình "vốn" ngoại ngữ.Vai trò của giáo viên là phải truyền tải, chuyển giao tri thức, biến những cái khó hiểu thành những cái đơn giản, dễ hiểu cho học viên tiếp thụ song hiện nay trong thực tiễn giảng dạy ở một số nơi, một số môn học trong đó có tham vấn lại có chiều hướng ngược lại nhất là khi giảng dạy các lý thuyết về tham vấn. Trong chương trình đào tạo cán sự xã hội của ta đã có mặt bộ môn tham vấn nhưng thời lượng giành cho môn học này vẫn còn ít. Nội dung đào tạo là thành tố cơ bản trong chương trình đào tạo. Nội dung đào tạo còn bao gồm những vấn đề như: kiến thức, kỹ năng, thái độ học tập, do vậy nội dung đào tạo phải gây được hứng thú, sự yêu thích cho học viên. Nội dung đó phải giúp cho học viên nâng cao hiểu biết, phát triển năng lực của bản thân và quan trọng nhất là phải giúp học viên ứng dụng được vào công tác và cuộc sống. Chương trình đào tạo phải phù hợp với học viên; thời lượng giữa lý thuyết và thực hành, giữa thực tập với thực tế phải được bố trí cân đối, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Các chương trình đào tạo cần chú trọng đảm bảo được các yếu tố đó là: tính đặc thù của xã hội Việt Nam và phù hợp với những bước đi chung của thế giới; vừa mang tính ổn định song lại luôn thể hiện được sự cập nhật.Nội dung kiến thức đào tạo cho học viên phải vừa sâu, vừa rộng, tạo cho học viên có được "Font" kiến thức, do đó giáo viên cũng phải có năng lực và tri thức tương xứng. Để tăng cường đội ngũ giảng dạy tham vấn không nên chỉ bó hẹp trong khuôn khổ những cán bộ làm công tác giảng dạy mà nên huy động thêm những người có khả năng cung cấp tri thức bổ sung cho chuyên môn - đó là những người thực hành công tác xã hội, các nhà nghiên cứu, nhà quản lý…có kinh nghiệm thực tiễn. Đây là đội ngũ có nhiều tri thức nhưng đôi khi họ lại không có dịp, có chỗ để trình bày.Nguồn tài liệu tham khảo có vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu trong quá trình học tập, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho học viên tự học tự nghiên cứu và nâng cao chất lượng đào tạo. Tài liệu tham khảo về tham vấn ở nước ta hiện nay rất ít và nếu có thì phần lớn là tài liệu nước ngoài chưa được biên dịch. Một trong những yếu tố thể hiện và nâng cao được trình độ người thày chính là ở chỗ giáo viên luôn chỉ ra được những tài liệu phục vụ bài giảng, làm cho bài giảng mang tính thời sự, hấp dẫn và lôi cuốn học viên, tạo cho người học có khả năng tự nghiên cứu, suy luận, tự đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; song việc chia sẻ (Share) tài liệu giữa người dạy và người học, giữa các giáo viên với nhau về tham vấn hiện nay cũng có nhiều "vấn đề". Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy tham vấn thì chúng ta phải đổi mới phương pháp giảng dạy và muốn đổi mới phương pháp giảng dạy tham vấn thì đầu tiên cần phải tổ chức lại cách học (Số lượng sinh viên trong lớp cần là bao nhiêu thì vừa đủ để học hiệu quả?; cần phương tiện gì?; môi trường như thế nào…). Đổi mới phương pháp giảng dạy chính là phải khơi gợi được tư duy phát hiện, tìm hiểu vấn đề và khả năng tự học của người học. Trong nhiều trường hợp, nếu giáo viên đặt vấn đề đúng và khéo gợi mở thì hầu như nội dung của bài giảng đều do học viên nêu lên, giáo viên chỉ chỉnh sửa chút ít, nhấn mạnh trọng tâm và hệ thống lại vấn đề.Tuy nhiên, cần phải nói thêm là: không có phương pháp nào chiếm ưu thế tuyệt đối, mà sự lựa chọn phương pháp dạy học tùy thuộc vào nội dung môn học, vào đối tượng cụ thể, vào tình hình và đặc điểm của lớp học (hữu nhân trị vô pháp trị). Có thể nói phương pháp hay nhất là kết hợp các phương pháp và yếu tố quyết định vẫn là con người - phụ thuộc vào chính người dạy. 2/ Những vấn đề trong nghiên cứuThông qua thực tế làm việc với các chuyên gia, qua các mối quan hệ liên kết, hợp tác đào tạo, qua các ứng dụng cụ thể, qua các ngành khoa học khác như: Tâm lý học, Công tác xã hội… tham vấn dần hình thành và phát triển ở Việt Nam. Có thể thấy, đặc điểm tham vấn ở nước ta - công tác giảng dạy và thực hành đi trước công tác nghiên cứu. Nhu cầu nghiên cứu tham vấn ngày càng rõ nét, vị thế của tham vấn đối với phát triển ngày càng cao. Tuy nhiên các đề tài nghiên cứu chuyên sâu hầu như không có mà chỉ có một số đề tài nhỏ lẻ có liên quan đến vấn đề tham vấn; đó là còn chưa kể tới đội ngũ cán bộ nghiên cứu không có chuyên môn tham gia nghiên cứu các đề tài này làm cho chất lượng nghiên cứu không cao. Việc đầu tư cho công tác nghiên cứu không tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ nên sự đóng góp cho tham vấn cũng hết sức hạn chế. Kinh nghiệm và kỹ năng nghiên cứu về tham vấn ở ta chưa nhiều, năng lực nghiên cứu về vấn đề này còn hạn chế do đó chưa thúc đẩy được sự phát triển của tham vấn ở nước ta.Trong thực tiễn cuộc sống, đội ngũ những người làm công tác tư vấn/tham vấn không phải ở đâu cũng đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Chất lượng của các trung tâm tư vấn/tham vấn cũng như trình độ của những "nhà" tư vấn/tham vấn hiện nay còn phải xem xét lại.III/ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ, GIẢI PHÁPTrong giảng dạy cần bổ sung nhanh chóng những cán bộ trẻ được đào tạo và làm công tác tham vấn một cách bài bản. Mặt khác, xúc tiến tổ chức bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại những cán bộ chưa qua đào tạo cơ bản chính quy về tham vấn nhằm trang bị và nâng cao trình độ lý luận và phương pháp tác nghiệp cụ thể cho những người làm công tác tham vấn. Từ đó chúng ta tiến đến khả năng cải thiện và nâng cao chất lượng của ngành/công tác tham vấn ở Việt Nam. Chú trọng các hoạt động đào tạo, huấn luyện giảng viên bằng nhiều hình thức. Tổ chức các lớp đào tạo tập huấn ngắn hạn do các chuyên gia quốc tế hướng dẫn; tăng cường kỹ năng ngoại ngữ.Xúc tiến xây dựng mạng lưới thông tin - tư liệu để trao đổi thông tin và khai thác các nguồn tư liệu; nâng cao chất lượng thông tin - tư liệu về tham vấn phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo. Cần tranh thủ các nguồn kinh phí để biên dịch các tài liệu cơ bản để cho học viên tham khảo. Tuy nhiên trong công tác biên dịch cần hết sức chú ý đến văn phong, câu chữ để phù hợp với văn hóa Việt Nam và dễ tiếp thu cho người học.Phối hợp nghiên cứu và đào tạo, hình thành cơ chế gắn kết hoạt động nghiên cứu và đào tạo ở trong các trường Đại học và các cơ sở nghiên cứu. Xác lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ sở nghiên cứu, đào tạo và các trung tâm tư vấn/tham vấn. Việc phối hợp nghiên cứu và giảng dạy; liên kết được với các trung tâm tư vấn/tham vấn cùng với các tổ chức đào tạo; đổi mới nội dung, phương pháp, chương trình giảng dạy sẽ quyết định chất lượng của (ngành/nghề) tham vấn trong tương lai.Tham vấn ở Việt Nam còn quá mới, đang bước đi những bước chập chững đầu đời, do đó chúng ta phải đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện thì nó mới phát triển tốt được. Chúng ta sẽ làm gì để nâng cao chất lượng và phát triển tham vấn ở nước ta? Đây là câu hỏi mà chỉ chính chúng ta mới biết và có thể trả lời.%

Thoả hiệp

Thoả hiệp

Tìm hiểu về Tư vấn tâm lý

  • http://tim.vietbao.vn/v%E1%BA%A5n_t%C3%A2m/

Thư viện về giới, PRA, phương pháp nghiên cứu, sức khoẻ sinh sản...

  • http://cihp.org/Desktop.aspx/ThuVien/Thu-Vien-CIHP

Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDs và thái độ của cộng đồng


Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS và thái độ của cộng đồng
(Tamly) – Đứng trước người bị nhiễm HIV/AIDS, nếu chúng ta cảm thấy sợ hãi, ghê tởm, lo lắng bị lây nhiễm, về vô thức chúng ta thường có hành động né tránh, phớt lờ và chỉ tiếp xúc khi cần thiết.
Ước tính trên thế giới có khoảng hơn 1.000.000 trẻ em bị nhiễm HIV. Khoảng bốn trong số mười đứa trẻ bị HIV thường chết trước khi chúng được một tuổi. Hơn một nửa số trẻ bị nhiễm HIV có thể sống tới năm năm. Một số ít trẻ sau mười năm mới biểu hiện các dấu hiệu lâm sàng của bệnh, nếu trẻ được chăm sóc tốt [1]. Điều này có ý nghĩa quan trọng rằng: trẻ bị nhiễm HIV vẫn có quyền được sống một cuộc sống bình thường. Trẻ rất cần được vui chơi, được hoà đồng với chúng bạn, trẻ vẫn cần được đến trường, bởi những trẻ bị nhiễm HIV không thể truyền bệnh cho người khác qua những hoạt động thông thường.

Thông qua nhiều cuộc tập huấn "Hỗ trợ kỹ năng tâm lý, xã hội cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS" cho các nhân viên xã hội đang chăm xóc trực tiếp trẻ em bị nhiễm HIV tại các Trung tâm bảo trợ xã hội (Chương trình tập huấn do UNICEF tài trợ cho bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, năm 2001, 2002 và 2003), chúng tôi xin trình bày một số vấn đề về thực trạng trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS sống tại các Trung tâm bảo trợ xã hội và thái độ của cộng đồng đối với những trẻ em này. Một sự hiểu biết toàn diện về trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS sẽ giúp chúng ta có ý thức và có trách nhiệm hơn với nhóm trẻ này và cũng giúp các em sống tích cực, có trách nhiệm với bản thân và xã hội hơn.

Trẻ bị nhiễm HIV/AIDS - Các em là ai?

Trẻ em bị nhiễm HIV/ AIDS được sống trong các Trung tâm bảo trợ xã hội thường do các bệnh viện hoặc các gia đình không có khả năng chăm sóc các em gửi đến (không ngoại trừ trường hợp các em bị bỏ rơi được gom về). Nhiều em không biết nguồn gốc gia đình mình. Các em dễ bị mất gia đình, mất lai lịch và sự thừa kế. Nguồn đảm bảo cuộc sống cho các em bị hạn chế. Hầu như các em không đến trường học, không có những người bạn mà các em thích. Các em thiếu thốn tình cảm ruột thịt và nhận được ít tình thương yêu, sự vuốt ve như các trẻ nhỏ khác. Trẻ bị nhiễm HIV bị hạn chế các hoạt động và giao tiếp xã hội. Các em thường bị sống cách li và được chăm sóc riêng vì sợ gây ảnh hưởng đến người khác và do nhiều người không muốn tiếp xúc với các em. Khi không bị đau yếu, các em thường vui đùa, nghịch ngợm, hồn nhiên như bao trẻ em khác. Tuy nhiên các em thường bị ghẻ lạnh, bị trêu trọc, bị coi thường, bị canh chừng từ chúng bạn và thậm chí cả từ những người chăm xóc các em.
Nhìn về tương lai, trẻ em bị lây nhiễm HIV/ AIDS mang bệnh cho đến lúc chết. Sức đề kháng cơ thể kém, các em thường dễ đau ốm vặt. Các em không có nghề nghiệp cho tương lai do không có sức khoẻ, không được học văn hoá, học nghề và cơ bản các em thường chết trước tuổi trưởng thành. Nếu trẻ vị thành niên bị HIV/AIDS do sử dụng ma tuý, mại dâm… các em sẽ bị cộng đồng, xã hội và thậm chí cả gia đình kỳ thị, lên án. Bệnh tật, thiếu thốn, cô đơn, lo sợ, mặc cảm…. có thể nhanh chóng đẩy các em quay lại với các tệ nạn xã hội ... Nhìn chung trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS trong bối cảnh hiện nay là không có tương lai.
Xem xét nguồn gốc gia đình, các em bé bị nhiễm HIV đa phần có cha mẹ cũng bị nhiễm căn bệnh này. Cha mẹ các em thường nghèo khó, mất nguồn thu nhập và có thể bị tan vỡ, hoặc đã bị chết. Với những trẻ đang còn cha mẹ, sự mặc cảm, đau buồn, tủi nhục hay vô trách nhiệm với bệnh của các em đã khiến họ tránh, giảm liên hệ với các em. Hầu như họ phó thác các em cho các Trung tâm xã hội, bệnh viện. Nhìn chung, các gia đình có người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS khó đương đầu tốt với dư luận cộng đồng, với mặc cảm bản thân, với bệnh tật và với kinh tế. Do đó các gia đình này thường khó lập được kế hoạch đối phó với những gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Các nghiên cứu của nước ngoài chỉ ra rằng: Quyền con người của trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS thường bị chối bỏ, trong đó chủ yếu là các quyền cơ bản sau [2]:

1. Quyền tự do không bị phân biệt đối xử (điều 2)
2. Quyền được sống, tồn tại và phát triển
3. Nghĩa vụ của nhà nước trong việc hỗ trợ cha mẹ và những người bảo trợ hợp pháp trong việc nuôi trẻ em (điều 18)
4. Quyền có được tiêu chuẩn cao nhất về chăm sóc y tế và sức khoẻ (điều24)
5.Quyền có được tiêu chuẩn sống đầy đủ và tiếp cận phúc lợi xã hội (điều27)
6. Quyền được biết tất cả những vấn đề có ảnh hưởng đến bản thân đứa trẻ (điều12 )
7. Quyền được học hành và tiếp cận thông tin (điều 28 và 13 )
8. Quyền được nhận sự chăm sóc thay thế thích hợp khi gia đình không có khả năng chăm sóc (điều 20 và 21 )

Thái độ của cộng đồng đối với trẻ nhiễm HIV/AIDs

Với trẻ có HIV/AIDS cộng đồng luôn có thái độ xấu, tiêu cực. Thái độ này thể hiện qua ngôn từ, lời nói mang tính riễu cợt, nguyền rủa, thể hiện ở sự phân biệt ứng xử. Quan sát của chúng tôi tại một Trung tâm bảo trợ xã hội - nơi chăm soc, nuôi dạy rất nhiều nhóm trẻ có các hoàn cảnh khó khăn khác nhau, cho thấy: những ngôn từ mà trẻ thường dùng để ám chỉ, để gọi trẻ em có HIV là: "Con siđa", "Con ết", "Đồ mắc dịch", "Cẩn thận nó đến đấy". TháI độ tiêu cực với người bị ảnh hưởng còn thể hiện trong sự hiểu biết không đúng về HIV/AIDS, về người bệnh của họ. Đặc biệt tháI độ này được quan sát rõ trong ứng xử kỳ thị, trong hành vi xua đuổi trẻ. Ví dụ như ở một số Trung tâm bảo trợ hoặc ở cộng đồng, trẻ có HIV không được đến nhà trẻ, trường học để cùng vui chơi, học tập với trẻ khác. Điều này làm hạn chế các em tham gia vào đời sống xã hội, ngay cả khi các em còn khoẻ mạnh.

Chúng tôi xin đơn cử một câu chuyện nuôi trẻ nhiễm HIV ở cộng đồng do Giám đốc Trung tâm nuôi dưỡng trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tỉnh Sóc Trăng kể:
"Trong làng có một gia đình bán hàng khô (mắm, muối, mì chính, mì gói, đường, hành. tỏi khô...). Gia đình này mới nhận nuôi một cháu bé bị nhiễm HIV đã bị cha mẹ bỏ rơi . Từ khi đem đứa trẻ về nhà, người làng không còn ai đến mua đồ của chị nữa. Điều này đe doạ đến nguồn sống của cả gia đình chị và cháu bé. Chị khẩn khoản nói với người làng: "Mua đồ cho người ta đi, người ta có hoàn cảnh mà, thông cảm vì đứa bé đi..." Người làng vui vẻ cười nói với nhau: "Nếu muốn mua xi măng thì đến bả"(ý nói nếu muốn chết, muốn xây mả thì đến mua hàng bà ấy).

Thực tế làm việc với các nhân viên xã hội trong các khoá tập huấn cho thấy: Các nhân viên xã hội thường có những đánh giá tích cực, thể hiện thái độ thiện chí với người nhiễm, hoặc thường nói đến những tình cảm cao đẹp mà xã hội cần đạt tới, như: "Cần phải thương yêu trẻ này", "Cần phải tôn trọng các cháu đó", "Cần phải coi trẻ này như con cái mình", "Không nên kỳ thị các em" .v.v…. và họ rất ít nói về những thái độ tiêu cực của bản thân, cộng đồng; những lo sợ bị lây nhiễm cũng như những định kiến của cộng đồng đối với trẻ bị HIV/AIDS.

Tuy nhiên, các cuộc thảo luận nhóm đều cho thấy có sự khác nhau rất lớn giữa những mong muốn điều tốt lành cho trẻ HIV và thực tế biểu hiện những cảm xúc, hành vi âm tính của họ. Điều này thể hiện rất rõ khi những người nuôi trẻ, những người có trách nhiệm giám sát trẻ mô tả cảm xúc, suy nghĩ của mình đối với các cháu bị nhiễm HIV/AIDS, như: "Cảm thấy lo sợ bị lây", "Rùng mình”, “Hạn chế tiếp xúc", "Cảm thấy công việc vô vọng", "Quả báo của mình", "Mong cha mẹ nó rước về"...

Đứng trước người bị nhiễm HIV/AIDS, nếu chúng ta cảm thấy sợ hãi, ghê tởm, lo lắng bị lây nhiễm, về vô thức chúng ta thường có hành động né tránh, phớt lờ và chỉ tiếp xúc khi cần thiết. Khi chúng ta cảm thấy bối rối trước người bị nhiễm, ta dễ có những thái độ biểu hiện cười, nói, hành vi không đúng với tâm trạng và hoàn cảnh, hoặc chúng ta sẽ lánh xa, rủa, hạn chế trò chuyện trực tiếp và hỏi chuyện của họ qua người khác. Trước người có HIV ta cảm thấy bất lực vì cho là không thể giúp đỡ được, ta sẽ làm căng thẳng vấn đề của họ, tỏ ra thương hại hoặc bực bội với họ một cách vô cớ. Khi chúng ta cho rằng người bị HIV/AIDS không có khả năng ứng phó, không sống tích cực, không chịu trách nhiệm với bản thân và xã hội, chúng ta dễ coi thường người nhiễm, tự quyết định việc của họ mà không hỏi ý kiến họ…

Khi xem xét thái độ của cộng đồng về khả năng hoà nhập học tập của trẻ bị nhiễm với các trẻ em khác, một cô giáo cho biết: " Trẻ nhiễm HIV nên được học tập, vui chơi với các trẻ khác, nhưng tôi làm sao dám đảm bảo là sẽ không có gì nguy hiểm với các trẻ khác. Tôi thì không có gì phản đối, nhưng chẳng cha mẹ học sinh nào đồng ý cả. (Trích lời của một cô giáo nói về trường hợp giả định trong lớp học của cô có trẻ em nhiễm HIV).

Tuy chưa có nhiều người thực lòng thương yêu thương và chăm sóc trẻ có HIV như con mình, nhưng chúng tôi cũng tìm được những người mẹ thứ 2 của trẻ – những người hàng ngày bồng bế, bón cơm, chăm sóc trẻ thay cho cha mẹ chúng. Như chị H. (Nhân viên chăm sóc các cháu bé bị HIV sơ sinh quận Gò Vấp, TP HCM) mộc mạc chia xẻ:

" Nếu nhiều người trong xã hội đều không sợ hãi trẻ bị HIV thì cuộc sống của chúng chắc sẽ còn được kéo dài thêm. Trẻ nhiễm HIV dù không được cha mẹ, người lớn quan tâm nhiều như trẻ em trong các gia đình, nhưng chúng vẫn vô tư, hồn nhiên. Tôi thương chúng như con mình. Tôi muốn có thêm nhiều hiểu biết về tình cảm của các cháu này để biết cách chăm sóc các cháu."

Hiện nay, thái độ của cộng đồng, của những người nuôi dưỡng các cháu bị nhiễm HIV/AIDS thể hiện ở những mức độ khác nhau và phát triển theo các giai đoạn khác nhau. Thường bắt từ sự định kiến, phủ nhận các cháu và căn bệnh, rồi chuyển dần đến giai đoạn chấp nhận sự hiện diện của các cháu với một thái độ dè dặt, sau đó là muốn thử giúp đỡ, chăm sóc các cháu.

Kinh nghiệm tập huấn về Hỗ trợ tâm lý cho trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS cho thấy: phần lớn những thái độ tiêu cực của cộng đồng đối với trẻ em bị nhiễm HIV/AID đều xuất phát từ sự hiểu biết không đầy đủ về HIV/AIDS, nguồn gốc phát sinh và quá trình tiến triển của căn bệnh này. Việc xác định được mức độ định kiến của cộng đồng và cung cấp thông tin chính xác về căn bệnh này sẽ làm giảm sự sợ hãi, xa lánh, khinh bỉ của cộng đồng với người bị ảnh hưởng.

Qua việc tiếp xúc với các cháu bị nhiễm HIV/AIDS và các nhân viên trợ giúp các cháu tại các trung tâm bảo trợ xã hội, chúng tôi rút ra một điểm chung cần nhấn mạnh đối với cộng đồng là:
Những người bị nhiễm HIV (trong đó có trẻ em bị nhiễm HIV), họ có thể tự đương đầu với bệnh tật một cách thích đáng. Nhưng họ khó có thể vượt qua được rào cản tâm lý xã hội để có được 1 cuộc sống bình thường như mọi người. Rào cản đó là sự khinh rẻ, kỳ thị, sự sợ hãi của nhiều người đối với người nhiễm. Vì vậy, ngăn ngừa thái độ tiêu cực và phân biệt ứng xử với người bị nhiễm HIV/AIDS phải được bắt đầu từ chính thái độ của các nhân viên xã hội, các bác sỹ, các nhà giáo dục, những người thân trong gia đình người bị nhiễm HIV/AIDS... và cả cộng đồng.

Trẻ nhiễm HIV sẽ được chăm sóc ở đâu?

Các thảo luận của chúng tôi về vấn đề này thường được bàn luận theo hai hướng. Cán bộ ở các Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em khó khăn có xu hướng bảo vệ quan điểm cho rằng trẻ bị nhiễm cần được nuôi dưỡng trong các Trung tâm xã hội. Theo họ, ở đó có các y, bác sỹ họ chăm sóc sức khoẻ cho các cháu tốt hơn ở cộng đồng, rằng chế độ dinh dưỡng của các cháu cũng được lưu ý hơn, rằng các cháu sẽ có bạn – "Bạn giúp bạn" nên đỡ buồn tủi hơn. v.v… Trong khi đó, những gia đình nhận nuôi dạy các cháu bị nhiễm thì cho rằng các cháu cần được tái hoà nhập cộng đồng để không bị phân biệt đối xử, rằng các cháu cần có một mái ấm gia đình thực sự, cần tình yêu thương, đối xử thật sự như con cái trong nhà. Nhìn chung các nhân viên xã hội đều hiểu rằng việc đưa trẻ em bị nhiễm HIV về cộng đồng nhờ các gia đình chăm xóc là tốt nhất cho trẻ. Trong thực tế hiện nay của Việt nam, theo chúng tôi, tuỳ vào từng hoàn cảnh và điều kiện của các cơ sở mà chúng ta có những hình thức quản lý các cháu khác nhau. Cách nào cũng có mặt tích cực, cũng đáng trân trọng.

Chúng tôi xin giới thiệu các hình thức chăm sóc trẻ bị nhiễm HIV/AIDS khác nhau trên thế giới [3]:
· Trẻ sống với gia đình, họ hàng (giải pháp tốt nhất).
· Trẻ sống trong nhà nuôi dưỡng có hệ thống giám sát để đảm bảo trẻ em được chăm sóc tốt.
· Trẻ sống với cha mẹ nuôi để chăm sóc các em như là một nhóm gia đình trong cộng đồng.
· Đứa trẻ lớn nhất quản lý gia đình và chăm sóc những đứa em bé hơn dưới sự hỗ trợ của cộng đồng.
· Gửi trẻ đến trại mồ côi (giải pháp cuối cùng).

Hỗ trợ các kỹ năng tâm lý xã hội cho cán bộ xã hội đang trực tiếp nuôi trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS có liên quan đến việc tuyên truyền, thuyết phục những người thân trong gia đình trẻ, cộng đồng, xã hội hiểu được bản chất của HIV, nhìn nhận HIV như là một căn bệnh hiểm nghèo như bao bệnh khác hơn là coi đó là tệ nạn xã hội hoặc là kết quả của tệ nạn xã hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thái độ thiện chí và đối xử công bằng với những người bị ảnh hưởng, để không coi người bị ảnh hưởng là thù địch trong cộng đồng. Điều này liên quan trực tiếp đến thái độ tích cực của những người đang làm việc trong các hệ thống truyền thông đại chúng trong việc tuyền truyền nâng cao nhận thức xã hội về căn bệnh này. Cần tạo nên một dư luận đúng đắn trong cộng đồng về bệnh HIV/AIDS và người bị ảnh hưởng để giúp cộng đồng thay đổi định kiến và ứng xử với người bị HIV/AIDS. ĐIều này liên quan đến tuổi thọ của người bệnh, hạn chế sự đổ bệnh của họ và đặc biệt làm vơi đi nỗi đau đớn về thể xác và tình thần của người bị HIV.

Tài liệu tham khảo

1. Grace Ndeezi, The international newsletter on HIV/AIDS prevention and care, AIDS action, Asia-Pacific EDITION, July-December 1999.
2. AIDS và quyền trẻ em, bản tin AIDS Net, phần 1, số 1.
3. Hội thảo về "Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và cộng đồng", hội nghị AIDS thế giới lần thứ 12 ở Gênva, Thuỵ sỹ – 1998 -Trích kết luận và khuyến nghị.
PGS, TS. Trần Thị Minh Đức
TS. Nguyễn Trà Vinh

Niềm hy vọng

Niềm hy vọng

Nghề gây căng thẳng nhất

Nghề gây căng thẳng nhất
Theo Hãng tin AP, Chính phủ Mỹ đã xác định được những nghề khiến người dân nước này bị căng thẳng và ức chế nhất. Đứng đầu bảng là nghề chăm sóc sức khỏe tư, trong đó bao gồm giữ trẻ, giúp đỡ người già và người tàn tật. Gần 11% nhân viên theo nghề này cho biết họ luôn trong trạng thái chán nản, bực dọc, gặp rắc rối trong việc ăn, ngủ, không có khả năng tập trung...
Kế đến là những người chuẩn bị và phục vụ thức ăn, gồm đầu bếp, nhân viên pha chế và hầu bàn, với 10,3% người cho biết mình bị căng thẳng vì công việc. Đứng thứ ba là các nhân viên chăm sóc sức khỏe và nhân viên xã hội. Ít bị căng thẳng nhất là giới kỹ sư, kiến trúc sư và kiểm sát viên. Một điểm nữa là nhân viên toàn thời gian ít bị tình trạng căng thẳng, chán nản hơn so với những người làm việc bán thời gian. Tình trạng trầm cảm trong giới lao động đã khiến xã hội Mỹ mất từ 30 tỉ đến 44 tỉ USD mỗi năm do làm việc không hiệu quả.

Kinh nghiệm bảo vệ trẻ em tại Thụy Điển

  • http://giadinh.net/print_preview.php?nID=325&lang=Vn

Sự Khác nhau Giữa Sài Gòn và Hà Nội

Gọi điện ngoài đường
Ở Sài Gòn, bạn hãy dừng xe - dắt lên vỉa hè - quay ngược đầu xe - nếu không muốn chiếc điện thoại của bạn cuốn theo chiều gió... >
"< Ở Hà Nội, bạn hãy đứng giữa ngã tư tấp nập người qua để nói chuyện điện thoại - cho cả thế giới biết bạn là ai
Cảm ơn
Ở Sài Gòn: bạn dửng dưng khi thấy cô receptionist cúi gập người chào bạn
Ở Hà Nội: bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn... T___T
Tán gái:
Gái Hà Nội: dễ tán, khó bỏ (????)
Gái Sài Gòn: dễ bỏ, khó tán
Cơn mưa
Mưa Sài Gòn giống tình yêu các cô gái Sài Gòn - nhanh đến nhưng nhanh đi
Mưa Hà Nội giống tình yêu các cô gái Hà Nội - âm ỉ nhưng dai dẳng
Tỏ tình:
Khi bạn nói với một cô gái: "Thế em có yêu anh không?"
Con gái Hà Nội: "Nếu nói không thì sao?"
Con gái Sài Gòn: "Tại sao lại không nhỉ!"
Ăn mặc
Ở Sài Gòn, bạn có thể mặc quần short, dép lê đàng hoàng vào Rex
Ở Hà Nội, bạn có thể thấy các bác xe ôm mặc đồ vest đứng chờ khách bên Bờ Hồ. Giày vớ
Đàn ông Hà Nội có thể đi giày mà khōng cần mang vớ
Con gái Sài Gòn có thể đi vớ mà không cần mang giày
Xe máy
Ở Sài Gòn: họ gọi chiếc xe gắn máy của bạn là xe hai bánh
Ở Hà Nội: họ coi chiếc xe máy của bạn là xe có động cơ
Xe
Hà Nội: hiếm gặp những xe đời cũ
Sài Gòn: những xe viện bảo tàng cho mượn vẫn lưu hành đầy trên đường phố
Xe khách
Sài gòn: Đi xe đò!!! 1 người 1 ghế (số ghế đàng hoàng) kō đón thêm nếu đã đầy
Hà Nội: Anh ngồi xích vào, cho người ta ngồi với!!!!!!!
Giao thông
Ở Sài Gòn, bạn có thể vượt đèn đỏ - nhưng chớ có dại vào phần đường xe hơi
Ở Hà Nội, bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi - nhưng đừng có dại dột mà rẽ phải tùy ý
Ở Hà Nội: Đèn đỏ khōng được rẽ phải
Ở Sài gòn: Đèn đỏ có nơi còn được quẹo trái
Con đường:
Hà Nội: Đường, phố, ngõ, ngách
Sài Gòn: Đại lộ, đường, hẻm, hẻm
Đụng hàng:Khi hai cô gái cùng thích một món đồ giống hệt nhau
Con gái Hà Nội: "Tớ với ấy cùng mua nó nhé?"
Con gái Sài Gòn: "Ấy mua rồi à? Vậy tớ sẽ chọn thứ khác"
Dao dĩa:Khi bạn nói: "Cho tôi thêm một cái dĩa" với người bồi bàn
Ở Hà Nội: Người ta sẽ mang cho bạn một cái nĩa
Ở Sài Gòn: Họ sẽ mang cho bạn một chiếc đĩa
Cave:Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave...
Cave Hà Nội: "Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về?"
Cave Sài Gòn: "Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha.."
Dạ vâng:Khi phụ huynh người yêu bạn có lời mời bạn đến nhà dùng bữa
Ở Hà Nội: Bạn nói: "Dạ, vâng!" (HA toàn nói thế T_T)
Ở Sài Gòn: Đã "Dạ" thì khỏi cần "Vâng"
Chào hỏi: Khi bạn chào phụ huynh bố mẹ người yêu trước khi ra về
Ở Hà Nội: "Cháu chào cô cháu về!"
Ở Sài Gòn: "Con thưa dì con dzìa!"
Giàu có: Bạn được coi là giàu có khi...
Ở Hà Nội: Bạn có rất nhiều tiền
Ở Sài Gòn: Bạn tiêu rất nhiều tiền
Giữ xe hàng quán:
Hà Nội: Giữ xe miễn phí
Sài Gòn: "Anh cho xin 2 ngàn"
Cà phê
Cà phê Sài Gòn với những hàng ghế xếp thẳng hàng như trên xe bus
Cà phê Hà Nội chen chúc với hai đôi tình nhân cùng xếp chung một bàn
Sài Gòn: Ít Cafe + ít sữa + đá + đá + đá + đá ... + đá = 1 ly phê sữa đá, xong cafe có 1 ấm trà to tướng... chan vào cafe uống???? hết lại có thêm (kô cần xin)
Hà Nội: Cafe + sữa + 2 cục đá = cốc nâu đá, xin mỏi miệng đuợc cốc nước lọc
Uống bia
Hà Nội: Bia hơi, lạc rang, 9 giờ phắn
Sài Gòn: Chai lạnh, đá to, nồi lẩu, nửa khuya dzìa
Trà đá
Ở Hà Nội: một cốc trà đá của mấy bà hàng nước giá năm trăm đồng
Ở Sài Gòn: cốc trà đá có thể pha làm bốn ly nhưng lại miễn phí
Ăn phở
Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa
Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê
Ăn sáng:Khi bạn nhận lời đề nghị của người bạn: "Đi ăn sáng với tớ nhé?"
Ở Hà Nội: Hoặc là bạn có nhiều hơn 20 nghìn, hoặc là chả cần xu keng nào!
Ở Sài Gòn: Điều kiện cần và đủ: Bạn có tối thiểu 10 ngàn trong túi!
Cơm trưa
Cơm trưa Sài Gòn với tô canh khổ qua 4 ngàn
Cơm trưa Hà Nội với bịt nước rau dầm sấu không lấy tiền
Xôi
Hà Nội: Gói lá khoai hay lá sen, xôi đồ bằng chõ
Sài Gòn: Cho vào hộp, hay bịch nylon, còn nếp nấu bằng nồi
Phở
Hà Nội: Khó mà thiếu mì chính, quẩy
Sài Gòn: Làm sao ăn phở được khi mà không có rau, giấm và tương đỏ (hoặc đen) Nước canh rau muống
Hà Nội: Sấu, chanh
Sài Gòn: Me, chanh
Tào phớ
Hà Nội: Lát mỏng, em nhớ ngày xưa hay hớt bằng vỏ con trai!
Sài Gòn: Lát dày cục, có gừng trong nước đường chứ không phải là hoa nhài
Chè
Hà Nội: Ăn trong cốc, bát nhỏ
Sài Gòn: Thường có nước dừa. Vội thì cắn 1 góc bịch chè và mút
Cuối tuần
Hà Nội: cả gia đình quây quần nấu nướng
Sài Gòn: đi ăn tiệm
Karaoke
Hà Nội: Chọn bài, hát vui là chính, hát sai tông cũng kệ
Sài Gòn: Chọn số, hát hay là chính vì thế hát rất tình cảm. Nhỡ mà sai tông sẽ quê lắm đấy ạ
Siêu thị
Hà Nội: Đắt đỏ, hàng hóa kô thiết thực
Sài Gòn: Thuận tiện, giá rẻ như chợ. Là nơi thư giãn mỗi cuối tuần cả gia đình
Nhà sách
Hà Nội: Nhân viên hách dịch
Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi
Chùa chiền
Hà Nội: Bước chân vào là thấy lòng nhẹ bẫng, hỉ nộ ái ố đã để lại ở phía ngoài cửa Sài Gòn: Không gian ồn ào, không tịnh
Cắt chanh
Hà Nội: Bổ ngang
Sài Gòn: Bổ dọc 2 bên, bỏ phần giữa
Cây xanh
Hà Nội: Nhớ phố hoa sữa Nguyễn Du, hàng sấu trên Trần Hưng Đạo
Sài Gòn: Me xanh đường Trần Văn Thủ, cây sao trên Ba Tháng Hai
Chất chơi và chất chiến
Hà Nội: Xe đẹp, điện thoại nhỏ, áo bỏ trong quần nhưng hỏi tiền thì ko có.
Sài Gòn: 5 số 67, TaK X đời đầu, áo phông, quần sóc, hỏi tiền: Chú cần nhiêu??? Ăn uống
Sài Gòn: chả ram, chả giò
Hà Nội: nem rán
Vá xe
Sài gòn : Vá xe lúc nửa đêm... em xin 5 ngàn thôi
Hà Nội : Muộn rồi em ơi, 50 nghìn anh vá cho
Hồ
Sài Gòn: Hồ Con Rùa to mà nhỏ, nhỏ mà to
Hà Nội: Các hồ đều bé dần lại
Tiêu tiền
Hà Nội: Làm nhiều tiêu ít
Sài Gòn: Làm ít nhưng tiêu ... vẫn nhiều!
Nói và làm
Sài Gòn: làm nhiều, không có thời gian nói.
Hà Nội: nói nhiều, không còn thời gian làm.
Người Hà Nội nói, người Sài Gòn khó hiểu!
Người Sài Gòn nói, người Hà Nội dễ hiểu!
(Theo Diendandulich)

Tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em đang diễn biến phức tạp


Tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em đang diễn biến phức tạp
Thứ sáu, 20/06/2008, 02:04 (GMT+7)
Đây là nhận định của hầu hết đại biểu tại hội thảo quốc gia về phòng chống buôn bán phụ nữ - trẻ em (PN-TE) tại Việt Nam, do Bộ LĐTB-XH và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tổ chức tại TPHCM ngày 19-6. Theo ILO, Việt Nam đang phải đối mặt với nạn buôn bán PN-TE ngày càng phức tạp, không còn đơn thuần buôn bán vì mục đích mại dâm, kết hôn cưỡng bức, bắt cóc… mà đã gắn liền với việc người lao động trẻ tuổi di cư ra các thành phố, khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm. Số liệu thống kê của Ban chỉ đạo Liên ngành Phòng chống buôn bán người (COMMIT) Việt Nam do ông Nguyễn Quốc Nhật, Ủy viên Thường trực COMMIT VN cung cấp cho thấy, tình hình buôn bán PN-TE ở VN đang có xu hướng gia tăng: đến nay đã có trên 6.680 PN-TE bị buôn bán; trên 21.000 PN-TE vắng mặt lâu ngày nghi ngờ bị buôn bán ra nước ngoài; khoảng 177.000 phụ nữ kết hôn với nước ngoài, trong số đó có bao nhiêu người bị lừa bán hiện chưa xác định được. Đặc biệt, hiện tượng buôn bán người đang diễn biến phức tạp khi đã phát hiện những vụ buôn bán đàn ông, thậm chí có vụ tội phạm gạ mua cả trẻ còn trong bụng mẹ…
Nguyễn Lữ

Giới thiệu về tôi

Nhân viên xã hội
Vietnam
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

Mùa mưa đến

Mùa mưa đến

Slideshows by User: foreman

Đang tải...

Cần xem và suy ngẫm



Mưa buồn

Mưa buồn

Visitors Map

You are now marked on my visitor map!


Visitor Map
Create your own visitor map!

Bài hát Áo lụa Hà đông

SlideShare | View | Upload your own

Tìm hiểu về luật

  • http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/

Thiết chế xã hội

Khái niệm chỉ toàn bộ hệ thống tổ chức và hệ thống giám sát mọi hoạt động của xã hội. Nhờ các TCXH mà các quan hệ xã hội kết hợp lại với nhau, đảm bảo cho các cộng đồng hoạt động nhịp nhàng. Về mặt tổ chức, TCXH là hệ thống các cơ quan quyền lực, các đại diện cho cộng đồng, đảm bảo những hoạt động đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cộng đồng và cá nhân. Ngoài việc giám sát của các hệ thống tổ chức, còn có hệ thống giám sát không mang những hình thức có tổ chức. Đó là phong tục, tập quán, dư luận, luôn luôn đánh giá và điều chỉnh hành vi của các thành viên trong cộng đồng xã hội. Các TCXH đều có nhiệm vụ: đáp ứng các loại nhu cầu khác nhau của cộng đồng và của các thành viên, điều chỉnh hoạt động của các bộ phận trong cộng đồng và của các thành viên, kết hợp hài hoà các bộ phận, đảm bảo sự ổn định của cộng đồng. Có nhiều loại thiết chế khác nhau:
1) Thiết chế kinh tế bao gồm những thiết chế liên quan đến việc sản xuất và phân phối của cải, điều chỉnh sự lưu thông tiền tệ, tổ chức và phân công lao động xã hội.
2) Thiết chế chính trị là những thiết chế như chính phủ, quốc hội, các đảng phái và tổ chức chính trị ...
3) Thiết chế tinh thần là những thiết chế liên quan đến các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, tôn giáo.
4) Thiết chế giao tiếp công cộng bao gồm tất cả các khuôn mẫu và phương thức hành vi trong sự giao tiếp công cộng.
Các mối quan hệ xã hội giữa người với người đều kinh qua những thiết chế. Những thiết chế này đều có tính độc lập tương đối so với các quan hệ xã hội ấy. Thiết chế thường có tính chất lạc hậu hơn so với các biến đổi của các quan hệ xã hội. Việc cải biến và thay đổi các TCXH liên quan trực tiếp đến quản lí xã hội và các chính sách xã hội.
Theo http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/

Slideshows by User: foreman

Đang tải...