18 tháng 2, 2008

Trẻ em Việt Nam


Trẻ em Việt Nam

© UNICEF Việt Nam\2006\Đoàn Bảo Châu
Trẻ em Việt Nam chiếm 36% dân số và các em được hưởng nhiều lợi ích từ những thành tựu phát triển kinh tế của đất nước. Việt Nam đã đạt hoặc có triển vọng đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi và trẻ sơ sinh đã giảm đáng kể trong hai thập kỷ qua. Với tỷ lệ tiêm chủng luôn đạt ở mức cao, Việt Nam đã thanh toán được bệnh bại liệt vào năm 2000 cũng như bệnh uốn ván ở bà mẹ và trẻ sơ sinh vào năm 2005. Kể từ năm 1990 đến nay, tỷ lệ mắc bệnh sởi đã giảm 95%. Các trường hợp thiếu Vitamin A đã trở nên rất hi hữu.
Giờ đây, trẻ em Việt Nam cũng được hưởng một nền giáo dục tốt hơn. Khoảng 97% trẻ em trong độ tuổi được học tiểu học, và Chính phủ cam kết tăng cường cơ hội giáo dục cho tất cả trẻ em Việt Nam.
Song, bên cạnh những thành quả đạt được, Việt Nam vẫn bị tụt hậu trong một số lĩnh vực chính liên quan tới trẻ em. Vẫn còn nhiều trẻ em chưa được tiếp cận đầy đủ với nước sạch và các phương tiện vệ sinh môi trường phù hợp (51,5% dân số chưa được tiếp cận với nước sạch; 74,7% chưa có nhà vệ sinh phù hợp). Ngoài ra, hai nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng chỉ có 18% các nhà vệ sinh hiện nay là đạt tiêu chuẩn vệ sinh quốc gia. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em còn quá cao (25% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng). Những yếu tố chính góp phần dẫn đến tình trạng dinh dưỡng kém ở trẻ em bao gồm: các tập quán chăm sóc và nuôi dưỡng kém; chỉ có 19% trẻ sơ sinh được hoàn toàn bú sữa mẹ trong 4 tháng đầu. Một vấn đề Việt Nam cần cố gắng hơn là tạo điều kiện cho trẻ em được tiếp nhận giáo dục khi các em còn nhỏ tuổi (chỉ có chưa đến 47% trẻ em từ 3 - 5 tuổi được đi nhà trẻ).
Ngoài những vấn đề tồn tại nêu trên, trẻ em Việt Nam còn đối mặt với những thách thức mới. Điều tra về tai nạn thương tích ở Việt Nam cho thấy gần 75% trường hợp tử vong ở trẻ em trên một tuổi là do thương tích, qua đó đưa ra một cách nhìn nhận mới về tử vong và bệnh tật ở trẻ em. Nguyên nhân tử vong chủ yếu là chết đuối và tai nạn giao thông.
Ngoài ra, việc tự do hóa về kinh tế đã làm thay đổi xã hội Việt Nam, gây ra sức ép chưa từng thấy lên các gia đình, trong đó có trẻ em. Do vậy, các vấn đề xã hội như vô gia cư, sử dụng ma túy, bóc lột về kinh tế và tình dục, buôn bán và bạo lực đang gia tăng. Ước tính có hơn 2,6 triệu trẻ em cần bảo vệ đặc biệt tại Việt Nam, trong đó có trẻ em khuyết tật, trẻ em mồ côi và trẻ em sống trong cảnh nghèo khó.
Thanh, thiếu niên Việt Nam chiếm gần 25% dân số, và điều này đồng nghĩa với nhu cầu ngày càng tăng về giáo dục nâng cao, việc làm, cơ hội tham gia và vui chơi giải trí cũng như được bảo vệ tránh khỏi rơi vào tình trạng lạm dụng ma túy, vi phạm pháp luật và HIV/AIDS.
Mặc dù Việt Nam có tỷ lệ nhiễm HIV ở người lớn tương đối thấp (0,53%), song dịch bệnh đã nhanh chóng chuyển hướng và xâm nhập vào những người dân bình thường. Hơn một nửa số trường hợp nhiễm HIV ở Việt Nam nằm trong độ tuổi 20 - 29, và cứ 10 người lại có một người dưới 19 tuổi bị nhiễm. Trẻ em cũng ngày càng có nguy cơ bị nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi AIDS dưới nhiều hình thức. Ước tính có khoảng 300.000 trẻ em bị ảnh hưởng bởi AIDS ở Việt Nam.
Sự phát triển của Việt Nam đã mang lại cơ hội to lớn cho nhiều người, song nó cũng làm sâu sắc thêm những sự chênh lệch giữa con người với con người. Sự chênh lệch về kinh tế - xã hội đặc biệt nghiêm trọng trong các dân tộc thiểu số. Tỷ lệ tử vong bà mẹ ở vùng núi phía Bắc, nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, cao gấp bốn lần so với miền xuôi. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh dao động từ 7,9 đến 62,6 trên 1000 ca sinh sống, trong đó cao nhất là ở các vùng núi xa xôi hẻo lánh. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở một số vùng dân tộc thiểu số vào khoảng 35 - 45%, trong khi tỷ lệ trung bình của cả nước là 25%. Tỷ lệ đồng bào các dân tộc thiểu số được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản như vệ sinh môi trường, nước sạch và giáo dục thấp hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình quốc gia. Ví dụ, năm 2002, tỷ lệ tiếp cận nước sạch của dân tộc Kinh và Hoa ở mức 52,6%, trong khi tỷ lệ này ở các dân tộc khác là 12,8%. Những chênh lệch về giới ở các dân tộc thiểu số thường rõ rệt hơn, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục.


Thông tin khác
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ, KHOẢNG CÁCH NGÀY CÀNG GIA TĂNG
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó 87% là dân tộc đa số người Kinh (người Việt) và 53 dân tộc thiểu số chiếm 13% dân số.
Nói chung, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh ở các dân tộc thiểu số cao hơn so với dân tộc đa số. Ví dụ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh ở tỉnh Kontum vào khoảng 63 trên 1000 ca sinh sống, cao gấp gần 4 lần so với trung bình quốc gia.
Một số vùng dân tộc thiểu số có tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi (36%) cao hơn nhiều so với trung bình quốc gia (25%).
Tỷ lệ dân cư nông thôn được tiếp cận với nước sạch và các phương tiện vệ sinh môi trường phù hợp lần lượt là 80% và 50%. Tuy nhiên, ở một số tỉnh miền núi và vùng sâu vùng xa nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, thì những con số này thấp hơn rất nhiều, chỉ khoảng 12,8% và 4,1%.
Tỷ lệ trẻ em học tiểu học trên toàn quốc là 97%, trong khi tỷ lệ này của dân tộc thiểu số H’mông chỉ là 41,5%.
Tỷ lệ trẻ em gái dân tộc H’mông học tiểu học thấp hơn 20% so với trẻ em trai của dân tộc này (2004).

Không có nhận xét nào: