25 tháng 2, 2008

TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM


1. Công tác xã hội nhóm là gì ?

CTXH nhóm là phương pháp trong CTXH nhằm giúp tăng cường, củng cố chức năng xã hội của cá nhân thông qua các hoạt động nhóm và khả năng ứng phó với các vấn đề của cá nhân , có nghĩa là :

o Ứng dụng những kiến thức, kỹ năng liên quan đến tâm lý nhóm (hoặc năng động nhóm)

o Nhóm nhỏ thân chủ có cùng vấn đề giống nhau hoặc có liên quan đến vấn đề.

o Các mục tiêu xã hội được thiết lập bởi NVXH trong kế hoạch hỗ trợ thân chủ (cá nhân, nhóm, cộng đồng) thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm giúp thân chủ tăng cường năng lực đối phó, chức năng xã hội thông qua các kinh nghiệm của nhóm có mục đích nhằm để giải quyết vấn đề của mình và thỏa mãn nhu cầu.

Konopka (1963) xác định phương pháp công tác xã hội nhóm là một phương pháp của ngành công tác xã hội giúp những cá nhân tăng cường chức năng xã hội của họ thông qua các kinh nghiệm của nhóm mục tiêu và khắc phục một cách hiệu quả hơn các vấn đề của cá nhân, nhóm và cộng đồng. Công tác xã hội nhóm tạo một bối cảnh trong đó các cá nhân hỗ trợ lẫn nhau, làm cho cá nhân và nhóm có khả năng ảnh hưởng và làm thay đổi các vấn đề của cá nhân, của nhóm, của tổ chức và của cộng đồng. Nó mang tính chất chức năng xã hội nhiều hơn và chính điều này làm cho nó khác hơn với nhóm trị liệu vì nhóm trị liệu chú trọng nhiều hơn các nhu cầu cảm xúc và các tiến trình tâm lý.

Mục đích của CTXH là giúp thân chủ (cá nhân) hay hệ thống thân chủ (nhóm hay cộng đồng) thỏa mãn nhu cầu, giải quyết vấn đề, tiến tới tự giúp và đóng trọn vẹn vai trò xã hội của mình, mặc dù kết quả nhắm tới là một đối tượng và phương pháp tác động khác nhau.

Trong phương pháp cá nhân, đối tượng được tác động vào là chính cá nhân người được giúp đỡ. Công cụ là mối quan hệ giữa NVXH và thân chủ.
Trong phương pháp nhóm, đối tượng tác động vào là toàn nhóm, là mối tương tác giữa các nhóm viên, là mục đích, bầu không khí, sinh hoạt nhóm. CTXH nhóm là sử dụng cơ cấu nhóm và năng động trong nội bộ nhóm để đem đến những thay đổi về nhận thức, niềm tin và hành vi. Các thành viên nhóm chia sẻ kinh nghiệm và sử dụng nguồn lực của cá nhân và của nhóm để giải quyết vấn đề của họ.

Trong phát triển cộng đồng, đối tượng là các tập thể khác nhau trong cộng đồng, mối tương quan sức mạnh giữa họ, những vấn đề của cộng đồng với mục đích cuối cùng là làm tăng khả năng tự giải quyết vấn đề cộng đồng.

2. Các mục tiêu của công tác xã hội nhóm :CTXH nhóm nhắm vào các mục tiêu như sau :

- Khảo sát về các đặc điểm của cá nhân :

Thông qua các sinh hoạt nhóm, NVXH (tác viên nhóm), các nhóm viên có thể phát hiện nhu cầu/khả năng/hành vi của mỗi cá nhân trong nhóm thông qua sự bộc lộ và tự đánh giá của ho (nhóm trẻ em/người lớn phạm pháp, nhóm cha mẹ nuôi, nhóm trẻ em đường phố). Từ những khám phá này, tác viên nhóm xây dựng chiến lược để đáp ứng nhu cầu, giúp chuyển đổi hành vi và giải quyết vấn đề.

- Duy trì và hỗ trợ cá nhân :

Cá nhân tham gia vào nhóm cảm thấy an toàn hơn. Nhóm hỗ trợ cá nhân đương đầu với những khó khăn trước hoàn cảnh xã hội (nhóm người khuyết tật, nhóm phụ huynh khuyết tật, nhóm sinh viên đi học xa nhà có nhu cầu rất mạnh tham gia nhóm cùng hoàn cảnh để chăm sóc cho nhau)

- Thay đổi cá nhân :

Nhóm có tác dụng giúp cá nhân thay đổi những hành vi cá biệt và phát triển nhân cách thông qua các yếu tố kiểm soát xã hội (nhóm vi phạm luật pháp nhằm tránh tái phạm trong tương lai), xã hội hoá (nhóm trẻ trong cơ sở tập trung học tập kỹ năng xã hội để tái hòa nhập cộng đồng), hành vi tương tác (nhóm huấn luyện để tự khẳng định); Giá trị và thái độ mới (nhóm sử dụng ma túy nhằm tác động đế thay đổi Giá trị và thái độ của họ), hoàn cảnh kinh tế (nhóm người thất nghiệp với mục đích tìm việc làm), cảm xúc và khái niệm về bản thân (nhóm phát triển lòng tự trọng, tăng năng lực).

Bà D. tới gặp NVXH và than rằng chồng bà từ ngày thất nghiệp thay đổi tánh tình hay uống rượu, ít quan tâm đến gia đình. Tới lượt ông chồng thì cho rằng từ ngày ông mất việc, bà hay nói xiên nói xéo rằng cuộc sống gia đình khó khăn, bà phải làm việc gấp đôi, ngụ ý là ông không làm tròn bổn phận nên ông buồn chán, mặc cảm. Từ đó cuộc sống trong gia đình căng thẳng. Đứa con trai vị thành niên bỏ nhà ra đi v.v... ở đây nếu làm việc với cả hai vợ chòng, hay với cả gia đình thì sẽ kết quả hơn vì NVXH có thể tạo điều kiện cho đôi bên đối thoại trong một bầu không khí thuận lợi.

Khi một số người có vấn đề hay nhu cầu giống nhau như một nhóm phụ nữ mới sinh con lần đầu biết thêm về cách nuôi dạy con, một nhóm bệnh nhân tâm thần trong giai đoạn phục hồi, một nhóm trẻ em bỏ học. ở đây tính chất đồng cảnh đồng thuyền làm cho đối tượng cảm thấy mình không phải lẻ loi, gặp người cùng cảnh ngộ họ cảm thấy vơi đi phần nào trước khó khăn.

Khi trao đổi với nhau vấn đề người này làm cho người kia sáng ra về chính mình. Hơn hết, sự khuyến khích giúp đỡ lẫn nhau của chính thân chủ là một nguồn động viên lớn. Có người nhờ đóng vai trò giúp đỡ người khác mà thoát ra khỏi khó khăn của chính mình. Từ nhóm sẽ có nhiều sáng kiến để giải quyết vấn đề. ở đây tác động của nhóm sẽ mang lại hiệu quả cao hơn là những cuộc tiếp xúc cá nhân giữa tác viên và thân chủ. Có khi người ta ngại cuộc trao đổi mặt đói mặt trong bầu không khí nghiêm trang. Bầu không khí nhóm sẽ ít có vẻ long trọng và họ sẽ thoải mái hơn. Nhóm trở thành một nguồn lực giải quyết vấn đề quý giá. Dĩ nhiên nhờ sự tác động của tác viên vào diễn tiến của nhóm thì nhóm mới sinh hoạt thuận lợi. Một lý do cuối cùng để người ta sử dụng nhóm là sự tiện lợi, đỡ mất thời giờ. Ví dụ như phổ biến một số thông tin cho các bà mẹ về kế hoạch hóa gia đình khi họ chờ để khám thai. Nếu có nhiều câu hỏi, trao đổi giữa các bà mẹ thì lượng thông tin sẽ có tác dụng hơn. Tuy nhiên cũng không nên quên rằng có những trường hợp không phù hợp với phương pháp nhóm.

- Cung cấp thông tin, giáo dục :

Nhóm giáo dục sức khỏe, nhóm kỹ năng làm cha mẹ, nhóm tình nguyện viên.

- Giải trí :

Vui chơi để đền bù sự mất mát trong cuộc sống. Nếu một người cô đơn hay suy nghĩ tiêu cực có thể có hành vi tiêu cực, buông xuôi; người khuyết tật hay có tâm trạng chán đời, mang hình ảnh bản thân thấp kém và sống tách biệt với những người xung quanh. Chính môi trường sinh hoạt giải trí vui chơi trong nhóm giúp cho con người cảm thấy lạc quan hơn và tăng cường mối quan hệ.

Tạo điều kiện cho cá nhân có môi trường trung gian giữa cá nhân với một hệ thống xã hội : Nhóm bệnh nhân và bệnh viện, nhóm phụ nữ nghèo và Quỹ vay vốn, nhóm trẻ đường phố và trường học hay trung tâm dạy nghề

- Thay đổi và/ hoặc hỗ trợ :

Ở đây thường là các nhóm mà NVXH thường xuyên tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau như:
· Nhóm gia đình (nhưng đòi hỏi kỹ năng chuyên môn, tay nghề giỏi mới làm được, khả năng thành công không cao như ở các nhóm khác), NVXH giúp cải thiện những trục trặc trong truyền thông và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
· Nhóm trẻ phạm pháp : NVXH định hướng chuyển đổi các hành vi tiêu cực của trẻ bằng những hoạt động tích cực tại địa bàn dân cư.

- Thay đổi môi trường :

Nhóm trong dự án phát triển cộng đồng – nhóm ở cơ sở cải thiện chất lượng cuộc sống, nhóm phụ huynh của một trường học mẫu giáo ...

VD: Tại Trường mẫu giáo, khi họp phụ huynh, người ta thường đánh giá về cô giáo, cách dạy, vấn đề ăn uống, cách đối xử của cô giáo đối với học sinh -> nhằm thay đổi môi trường.

- Thay đổi nhận thức xã hội :

Nhóm giúp tăng cường nhận thức của cá nhân và xã hội về một vấn đề nào đó, ví dụ nhóm người khuyết mong muốn xã hội nhìn nhận họ như là người bình thường, tạo điều kiện và cơ hôi cho họ hòa nhập tốt hon là coi họ như người cần phải cưu mang, bố thí. Càng xem họ như vậy thì họ càng tuổi thân, tự ti và cảm thấy là gánh nặng cho xã hội.

Mục tiêu xã hội được lập bởi NVXH nằm trong một kế hoạch nhằm thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin, thói quen, quan điểm, giúp thân chủ tăng năng lực để đối phó với những khó khăn trong cuộc sống.

Do tác động qua mối tương tác giữa các thành viên trong nhóm, mối tương tác này là công cụ chính dẫn đến sự thay đổi của nhóm viên, khác với CTXH cá nhân là mối quan hệ tương tác giữa thân chủ và NVXH.

3. Các đặc điểm của công tác xã hội nhóm :
o Hoạt động nhóm là nơi giúp thoả mãn nhu cầu của cá nhân.Thông qua môi trường sinh hoạt nhóm, cá nhân được đáp ứng nhu cầu giao tiếp. Mối quan hệ tương tác trong nhóm giúp họ chấp nhận nhau, tôn trọng nhau và từ đó nhờ vào sự tác động của NVXH tạo được một môi trường thuận lợi cho việc phát huy năng lực.

o Đối tượng tác động là mối quan hệ tương tác trong nhóm. Chính mối quan hệ tương tác này là công cụ chính trong CTXH nhóm để đạt các mục tiêu xã hội.

o Nhóm tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề thông qua ảnh hưởng của người khác, cá nhân bắt chước và học tập kinh nghiệm của người khác.
o Ảnh hưởng nhóm giúp thay đổi hành vi, thái độ của cá nhân
o Nhóm là môi trường bộc lộ về các mặt : cá tính, suy nghĩ, tâm sự…

o Chương trình hoạt động là một công cụ của công tác xã hội nhóm :

Trị liệu thông qua nhóm nhằm giúp cho thân chủ bộc lộ được cảm xúc, diễn đạt được cảm nghĩ, tâm tư của mình cho nên nói, đối thoại là hoạt động chủ yếu. Diễn kịch, vẽ hay một vài hình thức nghệ thuật khác được sử dụng nhưng mục đích không phải nhắm vào khía cạnh kỹ thuật diễn hay vẽ mà chỉ tạo điều kiện cho sự bộc lộ.

Trong CTXH nhóm ngoài những hình thức trên, chương trình là công cụ chủ yếu, nhất là khi CTXH nhằm vào mục đích xã hội hóa. Các hoạt động giải trí, thể dục thể thao, học kỹ năng sẽ là điểm thu hút và quy tụ nhóm viên. Chương trình có mục tiêu sẽ là động lực liên kết để vươn tới. Ví dụ sinh hoạt văn nghệ với mục đích luyện tập cho một buổi biểu diễn thời trang nội bộ, tập kịch để trình diễn vào cuối năm, sưu tầm các văn bản, hiện vật tiến tới một cuộc triển lãm về truyền thống v.v... Nếu có nhiều nhóm khác nhau cùng nhằm tới một mục đích, sẽ có sự tranh đua lành mạnh giữa các nhóm.

Chương trình còn giúp giới trẻ phát huy tiềm năng học tập các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống. Chương trình đối với một nhóm hành động có thể là cải thiện môi sinh, giải quyết một vấn đề khu phố.

Chương trình cần được nghiên cứu, chuẩn bị cho phù hợp và mang tính thu hút cao đối với đối tượng. NVXH trong CTXH nhóm không nhất thiết là người giỏi về kỹ năng sinh hoạt vì họ có thể mời sự hợp tác của các chuyên viên, và huy động tiềm năng của chính nhóm viên. Tuy nhiên, nếu là một NVXH thường xuyên phụ trách sinh hoạt trẻ thì kỹ năng sinh hoạt hay thủ công rất cần thiết. Hoạt động cụ thể (lao động) rất tốt về mặt ổn định tâm lý và tạo cơ hội tương tác thật.

Có điều cần nhắc lại là chương trình là công cụ, không phải cứu cánh. Mục đích cuối cùng của CTXH nhóm không phải là một vở diễn xuất sắc, một cuộc triển lãm hay mà là sự phục hồi hay tăng trưởng của nhóm viên, khả năng hợp tác, liên kết, kỹ năng giao tiếp v.v... Khác với một lớp dạy nghề chẳng hạn mà mục đích cuối cùng là sự chuyên môn hóa học viên.

Chương trình và tiến trình tâm lý xã hội phải được quyện vào nhau. Đặt nặng khía cạnh nào tùy mục tiêu của nhóm. Nhưng ví dụ đối với một nhóm thiếu nữ nghèo (ít được chăm sóc) trong một lớp học may thì cả hai mục tiêu: huấn nghệ và giáo dục phát triển nhân cách đều quan trọng như nhau.

Vì khía cạnh tâm lý xã hội khó nắm bắt nên thường các CLB đội nhóm chỉ quan tâm đến khía cạnh kỹ thuật của sinh hoạt.

7 yếu tố cần quan tâm trong công tác xã hội nhóm :

· Đối tượng là ai ?

· Nơi sinh hoạt, bối cảnh sinh hoạt có thuận lợi không vì nhóm rất cần có môi trường hội họp và sinh hoạt vui chơi giải trí.

· Nhu cầu gì cần được đáp ứng (nhu cầu thông tin, nhu cầu tìm việc làm, nhu cầu đào tạo nghề…). Một nhóm có nhu cầu giống nhau thì sẽ đồng nhất và thể hiện sự quan tâm, hòa hợp mạnh mẽ hơn. Ở một nhóm có nhu cầu và mối quan tâm khác nhau, sự tham gia vào hoạt động chung của nhóm sẽ bị giới hạn nhiều.

· Mục tiêu cần đạt được là gì ? Mục tiêu là giải quyết vấn đề của nhóm viên, nhóm viên thay đổi niềm tin, thái độ, hành vi và có khả năng đương đầu với những khó khăn mới. Cần phân biệt giữa mục tiêu của các hoạt động và mục tiêu xã hội.

· Giá trị: sinh hoạt nhóm dựa trên quan điểm gì ? (Tại sao phải lập nhóm?)
Nhóm người cai nghiện tại cộng đồng : Giá trị là tăng sức mạnh trong nỗ lực cai nghiện và cương quyết không tái nghiện.
Nhóm Phụ nữ tín dụng tiết kiệm : Giá trị là giúp họ có khả năng thoát nghèo và tiếp cận được các tài nguyên xã hội).

· Lý thuyết: sử dụng lý thuyết nào và cơ sở lý luận của nó? Chủ yếu là dựa trên lý thuyết về tâm lý và năng động nhóm.

· Phương cách thực hành ; cơ cấu (số lượng, thành phần, tuổi, giới tính, trình độ), vai trò (vai trò do phân công, vai trò thể hiện theo tình huống, cảm xúc, công việc khi sinh hoạt nhóm), trách nhiệm, mối quan hệ bên trong ( cơ cấu phi chính thức và chính thức) và bên ngoài nhóm (quan hệ với tài nguyên bên ngoài), các loại hoạt động nào được sử dụng, cách thức tổ chức ...

4. Các loai hình công tác xã hội nhóm:
o Nhóm giải trí : rèn luyện đạo đức và phát triển nhân cách. Mỗi hình thức và nội dung giải trí được nhân viên xã hội (NVXH) chọn lựa đều có mục đích xã hội (Trong nhà Mở, chiếu phim truyện cho trẻ xem hoặc kể chuyện cho trẻ nghe, sau đó cho các em thảo luận về nội dung, giúp trẻ phân biệt cái tốt/cái xấu cần tránh.

o Nhóm giáo dục : Giáo dục về kiến thức và kỹ năng (Nhóm các bà mẹ phòng chống suy dinh dưỡng cho con, nhóm chăn nuôi, nhóm đồng đẳng HIV/AIDS…

o Nhóm tự giúp : Nhóm hỗ trợ nhau để vượt khó (Nhóm người khuyết tật, nhóm đồng đẳng, nhóm cai nghiện…). Thường nhóm được NVXH giúp trong giai đoạn đầu, sau đó rút dần vai trò để nhóm tự đề ra các hoạt động, khi cần thiết thì NVXH mới can thiệp.

o Nhóm với mục đích xã hội hóa hay tái xã hội hóa : Nhóm giúp tăng cường khả năng xã hội. Ví dụ : Nhóm trẻ có hành vi không thích nghi (nhóm học sinh cá biệt tại trường học, nhóm trẻ đường phố…). Mục đích ở đây là phát triển nhân cách, giáo dục con người. Đi từ thấp đến cao có nhóm giải trí, nhóm kỹ năng cho trẻ em và thanh thiếu niên như hướng đạo, đọi nhóm CLB. Nhưng ở đây khía cạnh tâm lý xã hội được quan tâm nhiều chứ không chỉ chú trọng đến dạng kỹ năng. Đối với trẻ em và thanh thiếu niên đây là một môi trường xã hội hóa bổ sung cho gia đình và trường học hết sức quan trọng. Trước tiên những nhu cầu cơ bản kể ở phần trên được đáp ứng để dần tới những nhân cách lành mạnh, sung mãn. Kế đó sẽ có những con người tháo cát, biết hợp tác, cống hiến cho xã hội. Đó là nói đến các đối tượng bình thường. CTXH nhóm còn nhằm đặc biệt đến những thanh thiếu niên do hoàn cảnh đẩy đưa tới cuộc sống theo băng nhóm, phá quậy. Bằng cách từ từ lôi cuốn họ tham gia vào các hoạt động giải trí, thể dục, thể thao, văn hóa xã hội, họ sẽ thay thế những hành vi chống xã hội bằng những hành vi tích cực. Đó là mục đích tái xã hội hóa. Công việc này tất nhiên rất khó khăn. Thường thì các tác viên xã hội phải “thâm nhập” các băng nhóm sẵn có để tìm hiểu và từ từ giúp thay đổi cơ chế của nhóm cũng như hướng tới các hoạt động mang tính tích cực xã hội. Cũng có khó các nhóm được thành lập tại các trung tâm xã hội hay cộng đồng.

o Nhóm trị liệu : Nhóm là môi trường chia sẻ cảm xúc và trao đổi những kinh nghiệm, những vấn đề gặp phải (Nhóm cai nghiện, nhóm gia đình…). Nhóm gặp nhau định kỳ, trao đổi, tâm sự những vấn đề của mình (thất bại trong cuộc sống, phản hồi, góp ý cho nhau, cá nhân nhìn thấy vấn đề rõ hơn và có hướng giải quyết vấn đề). Ở đây là những đối tượng có vấn đề tâm lý mà thay vì chỉ dùng biện pháp cá nhân, sinh hoạt nhóm sẽ giúp thân chủ có điều kiện tâm lý xã hội tốt hơn để tự bộc lộ, thay đổi thái độ, hành vi (nhóm nghiện ma túy đang trên đà phục hồi chẳng hạn). Khi vấn đề nằm ở mối quan hẹ như thành viên một gia đình, CTXH nhóm vừa giúp cá nhân có vấn đề vừa giúp điều chỉnh lại mối quan hệ.

o Nhóm trợ giúp : Nhóm giúp tăng cường khả năng đồng cảm với người khác (Nhóm đồng đẳng HIV/AIDS vừa là tự giúp nhau vừa tác động xã hội để xã hội hiểu biết và đồng cảm với họ, không phân biệt đối xử ).

o Nhóm hành động (nhằm cải tạo môi trường và điều kiện xã hội)

Trong đời sống hàng ngày con người tự nguyện liên kết với nhau để giải quyết những vấn đề chung như cải thiện nhà ở, bảo vệ môi trường v.v... hay các quyền lợi khác. Ngày nay có nhiều nhóm gọi là “nhóm tự giúp” là các tổ chức do chính những người trước đó cần rất nhiều sự giúp đỡ của tổ chức và NVXH. Đó là những cựu bịnh nhân các loại, những người khuyết tật, những người trước kia là nạn nhân xã hội đã và đang vươn lên để thật sự tự giúp mà không còn phụ thuộc vào sự trợ giúp bên ngoài nữa. Người nghèo nhiều nơi đã liên kết tự giúp để thoát khỏi nghèo đói và đưa cộng đồng họ đi lên.

Các tác giã phân chia CTXH nhóm theo nhiều cách, nhưng nói chung có thể gom lại vào ba hạng mục tổng hợp trên. Thực chất ở mỗi loại có nhấn mạnh một khía cạnh như trị liệu, xã hội hóa, hay hành động nhưng không có ranh giới giữa ba cấp độ. Nhóm người cựu nghiện ma túy một khi được trị liệu có thể trở thành một nhóm hành động để giúp đỡ những người đồng cảnh. Một nhóm hướng đạo khi trưởng thành tiếp tục các hoạt động vì lợi ích xã hội trong cộng đồng. Đối với các nhóm hành động dù mục đích cuối cùng là hướng ngoại, là cải thiện môi trường xung quanh nhưng để hành động như một nhóm các thành viên cũng phải có những hiểu biết và kỹ năng tâm lý xã hội để hoạt động có hiệu quả. Từ đó thông qua hành động họ cũng có những thay đổi trong nhân cách, cải thiện mối quan hệ giữa người và người. Trong PTCĐ, chính các nhóm hành động nhằm giải quyết các mục tiêu khác nhau là động lực để cải thiện đời sống cộng đồng.

o Công tác xã hội nhóm và các ngành khác liên quan đến nhóm

Giữa các khoa như năng động nhóm, CTXH nhóm, trị liệu nhóm có những khác biệt như thế nào? Thực chất các lãnh vực này rất gần gũi. Sự khác biệt xuất phát từ mục tiêu, và một số khía cạnh về phương pháp.

Các khóa học về năng động nhóm (Group Dynamics) thường gọi là T Group (Training Group), Sensitivity Training Group thông qua thảo luận và một số phương pháp khác như sắm vai (role playing), trò chơi v.v... nhằm mục đích đào tạo. Đây là một môn tâm lý xã hội ứng dụng nhằm giúp học viên trở thành nhạy bén (sensitive) hơn về tâm lý nhóm, về mối tương tác trong nhóm, về chính mình trong nhóm.

Mọi thành phần trong xã hội có thể tham dự các khóa học về năng động nhóm để tăng kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo trong gia đình, giáo dục, nhà quản lý.

Nhân viên CTXH phải có kiến thức và kỹ năng cơ bản về năng động (hay tâm lý) nhóm mới có thể thực hiện CTXH nhóm.
Trị liệu nhóm (Group therapy) nhằm trị liệu cá nhân các bịnh nhân tâm thần, những người bị rối loạn, ức chế tâm lý khá sâu. Mối tương tác giữa bịnh nhân được sử dụng để hỗ trợ quá trình trị liệu nhưng công tác này đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về tâm lý, tâm lý trị liệu và tâm thần học.

Gia đình trị liệu (GĐTL), là một phương pháp sử dụng gia đình như một nhóm. Nó nhằm giải quyết những vấn đề của cá nhân thông qua sự điều tiết lại các mối quan hệ vợ chồng con cái. Xuất phát ít nhiều từ dịch vụ xã hội nhóm, GĐTL nhắm vào các gia đình có vấn đề tâm lý, tâm thần trầm trọng và rạn nứt nặng. GĐTL đã trở thành một ngành riêng kết hợp kiến thức tâm lý học, tâm thần học và CTXH. Một số NVXH đã trở thành chuyên viên GĐTL nhưng phải thông qua đào tạo thật vững chắc mới hành nghề này được.

CTXH nhóm nhằm vào người bình thường cũng như có vấn đề nhưng ở mức độ vừa phải. Khác với nhà tâm lý trị liệu mà mục đích chuyên môn là giúp cho thân chủ sáng tỏ và có sức mạnh nội tâm để giải quyết khó khăn, NVXH còn phải giúp người đó vận dụng tài nguyên trong xã hội như tìm công ăn việc làm, nắm vững luật bảo hiểm xã hội, biết cách xin trợ cấp, tìm nơi gởi con tạm v.v... Trong CTXH nhóm không chỉ có thảo luận trao đổi mà còn cần tới nhiều loại hình sinh hoạt như thể dục thể thao, ca hát, thủ công, kỹ năng đủ loại từ kỹ thuật đến xã hội. Ví dụ đối với trẻ em không thể ngồi thảo luận và với các cụ già không thể không có những cuộc du ngoạn, dã ngoại, đan móc v.v...

Tuy nhiên nhiều nơi coi các sinh hoạt này là mục tiêu thay vì chỉ là những phương tiện, công cụ để đạt tới các mục tiêu trị liệu hay xã hội hóa.

5. Những thuận lợi và bất lợi trong trị liệu thông qua nhóm

5.1 Những thuận lợi :

o Nhóm giúp có những kinh nghiệm xã hội : Trao đổi và bộc lộ cho nhau

o Nhóm là nguồn hỗ trợ lẫn nhau và giải quyết vấn đề

o Nhóm giúp thay đổi thái độ, cảm xúc, hành vi do mối tương tác xã hội và phản hồi, cá nhân khám phá về bàn thân và hiểu được người khác (cửa sổ Johari)

o Mỗi thành viên trong nhóm là một người có tiềm năng giúp đỡ. Vai trò của NVXH và thân chủ ít phân biệt được trong nhóm do có sự chia sẻ lãnh đạo giữa các thành viên trong nhóm và NVXH cũng là một thành viên.

o Nhóm có thể dân chủ và tự quyết, cung cấp nhiều quyền lực hơn cho nhóm viên

o Nhóm thích hợp cho các đối tượng thụ hưởng dịch vụ và tiếp cận các tài nguyên được dễ dàng hơn ( Y tế, giáo dục, vốn,…)

o Nhóm có thể tiết kiệm thời gian và năng lực của NVXH

5.2 Những bất lợi :

o Việc bảo mật khó duy trì trong CTXH nhóm hơn là trong CTXH cá nhân.

o Sinh hoạt nhóm phức tạp, mất nhiều thời gian và đòi hỏi ở khả năng chuyên môn của NVXH.

o Nhóm được thành lập có khó khăn để hoạch định, tổ chức và thực hiện. Công việc chuẩn bị cho loại nhóm nầy là quan trọng, có nhiều khó khăn cản trở phải khắc phục ở cấp độ nhóm viên, đồng nghiệp và cơ quan.
o Nhóm cần nhiều tài nguyên : NVXH có thể phải thương lượng để có những tiện nghi, quỹ, trang thiết bị, di chuyển...

o Cá nhân ít được quan tâm riêng trong nhóm. Một số cá nhân, ít nhất là ở vào giai đoạn phát triển nào đó không thể ứng phó với việc chia sẻ, cạnh tranh trong bối cảnh nhóm, họ cần một sự quan tâm đặc biệt của một mối quan hệ cá nhân. Trong nhóm họ có thể disruptive, thụ động, tổn thương hay là vật tế thần. Đôi khi một thời gian công tác với cá nhân có thể chuẩn bị tốt cho sự tham gia nhóm.

o Cá nhân dễ bị “dán nhãn” hơn. Thí dụ nhóm phụ huynh đơn thân, nhóm trẻ trốn học, nhóm nghiện rượu...

o Nhóm có thể nguy hiểm đối với một thiểu số nhỏ. Nhóm và người hướng dẫn nhóm có thể tấn công một cá nhân, từ chối cá nhân. Lãnh đạo nhóm như thế nào sẽ giảm thiểu được nguy cơ nầy (liên quan đến kỹ năng lãnh đạo nhóm). Hơn nữa nếu trong sinh hoạt dân chủ, việc thiểu số phục tùng đa số có thể đưa đến sự ức chế ở thiểu số. Cơ cấu ngầm có thể xuất hiện và “chọi” lại cơ cấu chính thức.


6. Các điều kiện cần có để thực hành công tác xã hội với nhóm có chất lượng:

1. Nhóm thân chủ phải là nhóm những người có vấn đề giống nhau
2. Nhân viên xã hội phải nắm vững kiến thức về năng động nhóm và tâm lý nhóm
3. Nhân viên xã hội phải quan tâm đến việc giúp các thành viên nhóm trở thành một hệ thống giúp đỡ lẫn nhau ;
4. Nhân viên xã hội nhóm phải hiểu vai trò của tiến trình nhóm tự nó như là động lực chính yếu cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể, tiến trình nhóm là công cụ chính của công tác xã hội với nhóm.
5. Nhân viên xã hội nhóm luôn tìm cách tăng cường sự tự quản của nhóm;
6. Nhân viên xã hội nhóm giúp các thành viên nhóm ý thức về mục tiêu của nhóm
7. Nhân viên xã hội luôn đánh giá định kỳ mức độ thay đổi của từng thành viên và của nhóm
8. Nhân viên xã hội phải có kỹ năng quan sát mối tương tác trong nhóm, kịp thời giải quyết mâu thuẫn, cải thiện truyền thông trong nhóm vì mối tương tác giữa các thành viên nhóm là động lực đưa đến sự thay đổi.

ThS Nguyễn Ngọc Lâm

Không có nhận xét nào: