29 tháng 4, 2008

NHỮNG YẾU TỐ CỦA SỨC MẠNH CỘNG ĐỒNG


NHỮNG YẾU TỐ CỦA SỨC MẠNH CỘNG ĐỒNGby Phil Bartle, PhD
Tăng quyền lực bao gồm xây dựng năng lực và tăng sức mạnh trong các lãnh vực khác nhau. Sau đây là 16 yếu tố nhờ nó mà một cộng đồng trở nên mạnh hơn:
LÒNG NHÂN TỪ
Đó là mức độ mà những cá nhân sẵn sàng hy sinh quyền lợi của mình cho quyền lợi của cộng đồng (phản ánh mức độ của sự rộng lượng, sự khiêm tốn, sự hãnh diện là thành viên cộng đồng, sự hỗ trợ lẫn nhau, lòng trung thành, sự quan tâm, tình đồng đội, tình anh em).
Nếu cộng đồng phát triển nhân từ hơn thì nó sẽ có khả năng hơn
GIÁ TRỊ CHUNG
Mức độ mà các thành viên cộng đồng cùng chia sẻ giá trị, đặc biệt là ý tưởng thuộc về một thực thể cộng đồng có mối quan tâm chung. Các thành viên cộng đồng càng chia sẻ, hoặc ít nhất là hiểu và khoan dung, những giá trị và thái độ của mỗi người, cộng đồng của họ sẽ mạnh hơn.
DỊCH VỤ CÔNG CỘNG
Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cho con người như đường xá, chợ búa, nước dùng, tiếp cận giáo dục, dịch vụ ý tế), sự bảo dưỡng nó (tuỳ thuộc vào sự duy trì và tu bổ), sự bền vững, và mức độ mà các thành viên cộng đồng được tiếp cận đến.
Các thành viên cộng đồng càng tiếp cận được các tiên ích công cộng thì sự tăng quyền lực sẽ càng cao hơn ( đo lường khả năng của các tổ chức, bao gồm trang bị văn phòng, công cụ, sự cung ứng, tiện ich cá nhân và làm việc.).
GIAO THÔNG LIÊN LẠC
Trong một cộng đồng và giữa cộng đồng và bên ngoài thông tin liên lạc bao gồm đường xá, các phương pháp điện tử (như điện thoại, truyền thanh, TV, internet), sách báo, các mạng lưới, các ngôn ngữ dễ hiểu biết nhau, sự mong muốn và khả năng truyền thông cho nhau.
Khi một cộng đồng thông tin liên lạc tốt hơn, nó sẽ mạnh hơn. Thông tin liên lạc nghèo nàn đồng nghĩa với một cộng đồng hoặc một tổ chức yếu kém.
TỰ TIN
Thái độ tích cực, sự quyết tâm, động lực bản thân, sự hứng thú, niềm lạc quan, tự lực hơn là lệ thuộc, mong muốn đấu tranh cho cái đúng, tránh sự thờ ơ và thuyết định mệnh, một viễn cảnh cái gì cũng có thể được. Tăng sức mạnh tức là tăng tự tin.
BỐI CẢNH ( CHÍNH TRỊ VÀ HÀNH CHÍNH)
Một cộng đồng sẽ mạnh hơn, càng dễ trở nên mạnh và bền vững thì môi trường hỗ trợ càng mạnh. Môi trường này bao gồm: Các yếu tố (1) chính trị (các giá trị và thái độ của các nhà lãnh đạo quốc gia, luật lệ ) và (2) hành chính ( thái độ của cán bộ phục vụ và các chuyên viên kỹ thuật, cũng như các quy định và thủ tục của nhà nước)
Khi các nhà chính trị, lãnh đạo, chuyên gia kỹ thuật và các cán bộ phục vụ cũng như các luật lệ và quy định của họ sử dụng cách tiếp cận bao cấp, cộng đồng sẽ yếu, khi nếu họ sử dụng cách tiếp cận có khả năng để cộng đồng hành động dựa trên nển tảng tự lực, cộng đồng sẽ mạnh hơn. Các cộng đồng có thể mạnh hơn khi họ tồn tại trong một bối cảnh có khả năng hơn.
THÔNG TIN
Càng đang có hoặc nhận thông tin đột xuất, sức mạnh của cộng đồng tuỳ thuộc vào khả năng xử lý và phân tích thông tin đó, mức độ nhận thức, hiểu biết và sự sáng suốt có được ở những nhân cật chính yếu và nói chung ở trong nhóm người.
Khi thông tin càng hiệu quả và càng có ích, không hẳn càng lớn, cộng đồng sẽ mạnh hơn.
CAN THIỆP
Mức độ và tính hiệu quả của sự linh hoạt (Huy động, quản lý đào tạo, gây nhận thức, khuyến khích) nhằm đưa đến sự gia tăng sức mạnh của cộng đồng là gì? Những nguồn từ thiện bên trong và bên ngoài có làm tăng mức lệ thuộc và làm suy yếu cộng đồng hay không hay là nó thách thức cộng đồng hành động và vì thế trở nên mạnh hơn? Cộng đồng cần sự can thiệp bền vững hơn. Nó tuỳ thuộc vào các quyết định từ những nhà tài trợ bên ngoài, nhưng họ lại có những mục tiêu và những vấn đề khác với của chính cộng đồng. Khi một công đồng có nhiều nguồn hơn về sự khuyến khích phát triển, nó sẽ mạnh hơn.
LÃNH ĐẠO
Các nhà lãnh đạo nắm quyền lực, ảnh hưởng và khả năng điều động cộng đồng. Lãnh đạo càng hiệu quả, cộng đồng càng mạnh. Bên cạh lãnh đạo dân chủ hoặc lãnh đạo tham gia còn có lãnh đạo chuyên chế, chuyên quyền và các phong cách độc tài, lãnh đạo hiệu quả và bền vững nhất (để tăng sức mạnh cộng đồng chứ không phải tăng sức mạnh cho những nhà lãnh đạo) là lãnh đạo thực thi theo ý nguyện của cộng đồng nói chung, giữ vai trò thông hoạt.
Nhà lãnh đạo phải có kỹ năng, thiện ý và uy tín. Lãnh đạo càng hiệu quả, cộng đồng hoặc tổ chức càng thêm có khả năng.
MẠNG LƯỚI
Không chỉ “bạn biết gì”, mà còn “bạn biết ai” có thể là nguồn tăng sức mạnh. (Như thường nói đùa, không chỉ “biết thế nào” mà còn “ biết ai” để tìm được việc làm). Mức độ mà các thành viên cộng đồng, đặc biệt là các nhà lãnh đạo, những người quen biết (và cơ quan hoặc tổ chức của họ) có thể cung cấp tài nguyên có ích sẽ làm tăng sức mạnh cho cộng đồng nói chung?
Các nối kết có ích, tiềm năng và đã thực thi, hiện có trong cộng đồng và với những người khác ở bên ngoài. Mạng lưới càng hiệu quả, cộng đồng càng mạnh (sự cô lập đưa đến sự yếu kém).
TỔ CHỨC
Múc độ mà các thành viên khác nhau trong cộng đồng tự thấy mình có vai trò hỗ trợ nói chung ( đối kháng với một tập hợp người chia rẽ), bao gồm ( theo ý nghĩa xã hội học) sự toàn vện về mặt tổ chức, cơ cấu, thũ tục, tiến trình lấy quyết định, hiệu quả, sự phân chia công việc, các vai trò bổ sung và các chức năng.
Càng tổ chức hoặc càng tổ chức hiệu quả thì cộng đồng hoặc tổ chức càng có khả năng hoặc thêm sức mạnh.
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
Mức độ cộng đồng tham gia vào lấy quyết định quốc gia và địa phương. Mỗi khi cá nhân thay đổi quyền lực trong một cộng đồng thì nhiều cộng đồng thay đổi quyền lực và ảnh hưởng trong dịa phương và quốc gia.
Một cộng đồng hay một tổ chức càng thực thi quyền lực và ảnh hưởng chính trị thì có khả năng ở bậc cao hơn.
KỸ NĂNG
Khả năng thể hiện ở cá nhân sẽ đóng góp cho tổ chức của cộng đồng và khả năng là được những việc mong muốn làm, kỹ năng kỹ thuật, kỹ năng quản lý, kỹ năng tổ chức, kỹ năng huy động.
Một cộng đồng hoặc tổ chức càng có thể trang bị va sử dụng các kỹ năng (nhóm hoặc cá nhân), cộng đồng hoặc tổ chức càng thêm quyền lực.
NIỀM TIN
Mức độ các thành viên cộng đồng tin tưởng nhau, đặc biệt là những nhà lãnh đạo của họ và những cán bộ phục vụ cộng đồng, một phản ánh mức độ liêm chính (sự trung thực, sự tuỳ thuộc, sự cởi mở, sự minh bạch, sự tin cậy) trong cộng đồng.
Càng tin tưởng và tuỳ thuộc trong cộng đồng phản ánh khả năng gia tăng ( Thiếu trung thực, tham nhũng, tham ô, phân tán nguồn lực cộng đồng, tất cả góp phần làm cho cộng đồng hoặc tổ chức suy yếu).
ĐOÀN KẾT
Một ý nghĩa thuộc về được chia sẻ về một thực thể nhận biết (như nhóm hình thành cộng đồng), mặc dù mọi cộng đồng có những phân chia (như tôn giáo, giai cấp, ví trí, tuổi tác, giới tính, dân tộc, bộ tộc), mức độ các thành viên cộng đồng mong muốn giảm nhẹ sự khác biệt và thay đổi giữa họ với nhau và mong muốn hợp tác và làm việc nhau vì mục đích hoặc viễn cảnh chung, cùng chia sẻ gia trị.
Khi một cộng đồng hoặc tổ chức càng thống nhất thì càng mạnh hơn. (Đoàn kết không có nghĩa là mọi người như nhau, mà mọi người chấp nhận sự khác biệt và làm việc vì sự nghiệp chung).
SỰ THỊNH VƯỢNG
Mức độ cộng đồng nói chung kiểm soát được các tài nguyên hiện hữu và tiềm năng và sản xuất và phân phối những hàng hoá và dịch vụ lợi ích và khan hiếm, tiền tệ và phi tiền tệ (bao gồm lao động, đất, trang bị, vật liệu, kiến thức, kỹ năng).
Một cộng đồng càng thịnh vượng thì sẽ mạnh hơn.
Kết luận
Bất cứ một cộng đồng hoặc một tổ chức nào càng hội đủ một trong các yếu tố nêu trên thì càng mạnh hơn, có năng lực hơn, và có quyền lực hơn.
Một cộng đồng là một thực thể xã hội, Nó không thể mạnh hơn bởi đơn giản là có thêm một số tiện nghi. Tăng sức mạnh hay xây dựng năng lực cộng đồng đòi họi thay đổi xã hội – phát triển – và vì vậy cần có tất cả 16 yếu tố nêu trên của sức mạnh.
.

28 tháng 4, 2008

Làm thế nào để khiến họ cảm thấy bạn thấu hiểu họ


Làm thế nào để khiến họ cảm thấy bạn thấu hiểu họ

Làm thế nào để thể khiến họ cảm thấy bạn thấu hiểu mà không cần nói câu ” ử, thế à”

Trong khi lắng nghe một ai đó nói chuyện, chúng ta thường phát ra tín hiệu âm thanh “ừ hứ.” Hoặc đơn giản chỉ là “ừ” để báo cho người nói biết rằng chúng ta nghe thấy những gì họ nói. Thực tế, với một số người đó là một thói quen, âm thanh thoát ra từ cổ họng họ một cách vô thức chứ không có bất cứ ý nghĩa đặc biệt nào. Một anh bạn của tôi tên là là Tuấn; có thể nói anh là một người luôn “ừ hừm” một cách liên tục, không thể kiềm chế được. Mỗi khi tôi nói chuyện với anh, anh đều như vậy. Đôi khi nếu tôi cảm thấy muốn gây sự sau mỗi lần anh đưa ra tín hiệu đồng ý “ừ hừm” để đáp lại những gì tôi nói thì tôi quay lại hỏi anh: “Được rồi Tuấn, em vừa nói gì nào?”

” À…ừ, em vừa nói…”Thực ra Tuấn đâu có biết tôi vừa nói gì bởi tuy có thể hiện anh nghe thấy những điều tôi nói nhưng Tuấn đâu có chú ý tới. Đó không phải là lỗi của anh. Anh là đàn ông. Mà đàn ông thì rất hay có thói quen “ư hừm” nhưng lại không thực sự lắng nghe và chúng ta cũng rất khó có thể thay đổi sự thật này. Một lần khi tôi đang độc thoại về những chuyện trên trời dưới biển thì Tuấn lại đóng vai trò là một người “ừ hứ” thực sự. Để kiểm tra kỹ năng nghe của anh, tôi xen vào: “Đúng vậy, em nghĩ rằng chiều nay em sẽ ra ngoài và xăm trổ khắp cơ thể”.

Tôi nói vậy nhưng Tuấn vẫn gật đầu và “ừ hứ” theo thói quen của mình.

Chà chà. Thực tế anh đâu có nghe những gì tôi nói. Dù sao đi chăng nữa ừ hứ cũng tốt hơn là một cái nhìn trống rỗng. Tuy nhiên, đó không phải là lựa chọn của những người giao tiếp hàng đầu. Hãy thử thay thế ừ hứ bằng các dấu hiệu thể hiện sự thấu cảm thực sự.


Các dấu hiệu thể hiện sự thấu cảm là gì vậy?

Các dấu hiệu thể hiện sự thấu cảm là những câu nói đơn giản, ngắn gọn có tính chất hỗ trợ ủng hộ. Không giống như “ừ hứ”, chúng là một câu nói hoàn chỉnh chẳng hạn như “tôi có thể nói rằng anh quyết định như thế là sáng suốt.” Hoặc “Điều đó thật thú vị.” Các dấu hiệu thể hiện sự thấu cảm có thể là một câu đơn giống như: “Đúng vậy, làm như vậy quả thật rất đáng sợ.” Hoặc “Bạn cảm thấy như vậy thật hấp dẫn.”

Khi bạn phản ứng bằng một câu hoàn chỉnh thay vì ừ hứ thì bạn không chỉ tỏ ra mình có khả năng ăn nói lưu loát mà người nghe còn cảm thấy rằng bạn thật sự hiểu những gì họ đang nói.

Phương pháp - Sử dụng các dấu hiệu thể hiện sự thấu cảm

Đừng nên là một người chuyên ừ hứ một cách vô thức. Hãy nói một câu hoàn chỉnh để thể hiện với người đàm thoại với bạn rằng bạn hiểu những gì họ nói. Hãy thêm vào phần hội thoại của bạn những câu như: “Em hiểu anh muốn nói gì.” Hãy thể hiện tình cảm bằng câu “Những điều bạn nói thật đáng yêu.” Sự thấu hiểu của bạn sẽ gây ấn tượng đối với người nghe và khuyến khích họ tiếp tục nói. Họ sẽ không bao giờ thắc mắc xem thực sự bạn có lắng nghe họ hay không. Họ sẽ tin rằng bạn hiểu và ủng hộ những điều họ đang nói.
Tất nhiên, bạn cũng phải trả một cái giá. Sử dụng đúng các dấu hiệu thể hiện sự thấu cảm thì có nghĩa là bạn cần phải thực sự lắng nghe những gì người đàm thoại của mình nói.

Tiếp tục đấu tranh phòng chống mại dâm và tệ nạn ma tuý


Tiếp tục đấu tranh phòng chống mại dâm và tệ nạn ma tuý
Ngày 11/3/2008, tại Hà Nội, Cục phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) tổ chức toạ đàm báo chí về công tác phòng, chống mại dâm và cai nghiện phục hồi.
Báo cáo của Cục phòng chống tệ nạn xã hội cho biết, về công tác phòng, chống mại dâm, năm 2007, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã chữa trị cho 5.104 đối tượng mại dâm , trong đó tại Trung tâm 2.597, tại cộng đồng 2.507 đối tượng. Số được dạy nghề, tạo việc làm là 3.714 đối tượng, đạt 102% kế hoạch. Nhiều địa phương, số gái mại dâm đưa vào Trung tâm giảm mạnh như Thành phố Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Đồng Nai, Cần Thơ, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang, An Giang…Tính đến hết tháng 12/2007, cả nước có 1715 xã, phường đăng ký xây dựng xã phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội và có 8938 xã, phường (chiếm 80% tổng số xã, phường) không có tệ nạn mại dâm. Bên cạnh đó, có 24/64 tỉnh, thành phố xây dựng được 1.152 Đội hoạt động xã hội tình nguyện với 10.039 tình nguyện viên hưởng phụ cấp hàng tháng phổ biến ở các mức 120.000 đồng, 100.000 đồng và 80.000 đồng, có tỉnh ở mức 250.000 đồng, 200.000 đồng và 120.000 đồng. Tuy nhiên, tệ nạn mại dâm vẫn diễn biến phức tạp và tồn tại dưới nhiều hình thức, mại dâm nơi công cộng xảy ra ở nhiều địa phương, mặc dù đã được cơ quan chức năng đấu tranh xóa bỏ nhưng lại nhanh chóng tái diễn, hình thành các phố vẫy, tụ điểm đón khách bình dân. Các yếu tố môi trường dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm vẫn diễn biến. Mặc dù, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo về việc tạm ngừng cấp giấy phép đối với hoạt động vũ trường nhưng trên thực tế vẫn xuất hiện nhiều vũ trường hoạt động với hình thức, quy mô lớn. Năm 2005, cả nước có 104 cơ sở thì năm 2007 đã tăng 59% với 165 cơ sở. Công tác kiểm tra, thanh tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ tuy đã được tăng cường nhưng vẫn còn xử phạt vi phạm hành chính ở mức thấp, công tác triệt phá ổ nhóm mại dâm thường chỉ chú ý đến các tụ điểm ở khu vực trung tâm thành phố, không ít tụ điểm phức tạp ở nông thôn mặc dù đã được tố giác nhưng chậm được xử lý.
Về công tác cai nghiện phục hồi, đến hết năm 2007, cả nước có 134.157 người nghiện có hồ sơ quản lý và đã tổ chức cai nghiện cho 62565 lượt người, kể cả năm 2006 chuyển sang là 36.691 lượt người và số tiếp nhận mới trong năm 2007 là 25.874 lượt người; số được hỗ trợ vốn tạo việc làm cho người sau cai nghiện đạt 103% so với kế hoạch (25.874/25.000). Một số địa phương làm tốt công tác quản lý ssau cai nên tỷ lệ tái nghiện giảm rõ rệt như Tuyên Quang; Riêng Thành phố Hồ Chính Minh trong năm 2006-2007 có trên 11.000 người tái hòa nhập cộng đồng mới phát hiện tái nghiện 4,79%. Thực hiện Nghị quyết 16/2003/QH của Quốc hội tại 7 tỉnh có đề án thí điểm quản lý, dạy nghề và giải quyết làm cho người sau cai nghiện, đến nay đã có trên 10.000 người đang thực hiện giai đoạn II của Đề án. Trong đó, tại Thành phố Hồ Chí Minh, số đối tượng chuyển sang giai đoạn II để thực hiện Đề án sau cai là 7.758 người, 11.099 người hoàn thành giai đoạn sau cai đã được xét duyệt giải quyết tái hoà nhập cộng đồng, đặc biệt mới phát hiện khoảng 4,79% trong số này là tái nghiện. Tại Hà Nội, có 2 trung tâm được thành phố giao thực hiện thí điểm Đề án. Hiện 2 cơ sở này đang quản lý 743 người. Các địa phương Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh, Tây Ninh, Long An, Bình Dương đang xây dựng và ban hành một số văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện Đề án.
Trong năm 2008, công tác phòng chống mại dâm, phấn đấu giảm 80% số tụ điểm mại dâm ở nơi công cộng, không phát sinh tụ điểm mới; đấu tranh, triệt phá, xử lý 100% số vụ việc, đường dây hoạt động mại dâm được phát hiện; giảm 80% số cơ sở kinh doanh dịch vụ (khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ, vũ trường…) hoạt động mại dâm trá hình dưới mọi hình thức; Chữa trị, giáo dục, dạy nghề, hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng cho 70% số người bán dâm có hồ sơ quản lý; giảm 59% tỷ lệ tái phạm; giữ vững số xã, phường, thị trấn hiện không có tệ nạn mại dâm, xây dựng mới ít nhất 10% xã, phường, thị trấn không có tệ nạn mại dâm.
Về công tác cai nghiện phục hồi, phấn đấu cai nghiện mới cho từ 20-25% tổng số người nghiện có hồ sơ quản lý. Dạy nghề tạo việc làm cho 30-35% số người được cai nghiện ở cả trung tâm và cộng đồng. Cai nghiện phục hồi cho 50.000 người nghiện và dạy nghề, tạo việc làm cho 6.000 người. Hết năm 2008, bảo đảm từ 60-70% số người nghiện có hồ sơ quản lý được cai nghiện bằng hình thức này hoặc hình thức khác theo điều kiện từng địa phương./.
Mỹ Hạnh

24 tháng 4, 2008

Tâm lý trị liệu


Tâm lý trị liệuBách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Tâm lý trị liệu, (tiếng Anh: psychotherapy) là hệ thống các phương pháp, kỹ thuật được nhà tâm lý trị liệu sử dụng, nhằm cải thiện sức khỏe, tinh thần, tháo gỡ các trở ngại trong cảm xúc và hành vi của thân chủ, mà nó là nguyên nhân làm cho họ cảm thấy khó khăn trong việc tự quản lý cuộc sống và đạt đến các mục đích mong muốn của mình.


Vấn đề riêng tư
Nhà tâm lý trị liệu bắt đầu bằng công việc bằng cách tìm hiểu những vấn đề mà thân chủ đang gặp phải để tìm cách giải quyết. Đây là vấn đề có tính chất nhạy cảm, riêng tư, vì thể nhà tâm lý trị liệu có trách nhiệm trước pháp luật bảo toàn bí mật những thông tin liên quan đến trị liệu cho thân chủ của mình.


Nhà tâm lý trị liệu
Ở nhiều quốc gia, những người làm tâm lý trị liệu phải được đào tạo, cấp bằng và cấp phép hành nghề. Nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân từ những chuyên ngành khác nhau: có thể là nhà tâm lý, nhân viên các cơ quan xã hội, điều dưỡng viên tâm thần, bác sĩ tâm thần, nhà phân tâm học hoặc các chuyên viên khác đang làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Tâm lý trị liệu là phương pháp tâm lý, dùng để chữa trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc chủ yếu bằng lời nói hoặc các kỹ năng giao tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Trong tâm lý liệu pháp, bệnh nhân trò chuyện với nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm hiểu chính họ, tạo nên một cái nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứ và hiện tại, thay đổi những hành vi đã định hình của người bệnh. [1]

Theo Alexander, tâm lý trị liệu thực sự không phải là việc gì đó quá mới mẻ, xa lạ hoặc vượt quá tầm hiểu biết của con người. Alexander phát biểu: Bất kỳ ai đang cố gắng cảm thông với một người bạn đang đau khổ hoặc cố trấn an một đứa trẻ đang hoảng sợ, thì cũng có thể xem người ấy đang thực hành tâm lý trị liệu. Người đó đang cố gắng vận dụng các phương thức tương tác về mặt tâm lý để bảo tồn trạng thái thăng bằng về mặt cảm xúc ở một người khác. Những cách thức thông thường này chủ yếu được dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác hơn là sự hiểu biết có tính khoa học. Khi bạn đang nói chuyện với ai đó đang có tâm trạng phiền muộn, bạn cũng có thể tự nhiên hiểu được tác dụng tốt của việc giúp cho người ấy giải tỏa cảm xúc. Với một người đang trong trạng thái hỏang sợ, quẫn trí, bạn cũng có thể (bằng sự hiểu biết có tính trực giác) mang đến cho người ấy sự hỗ trợ về mặt cảm xúc bằng những lời khuyên và một thái độ vững chãi để người ấy có thể tin tưởng nương tựa vào bạn. Bạn vốn cũng có thể đã biết rằng khi một người đang bị chìm ngập trong một tình huống có tính nguy hiểm, đáng sợ thì người ấy không thể sử dụng được lý trí của mình một cách hiệu quả, và bạn cần giúp anh ta ổn định bằng cách nâng đỡ về mặt tâm lý. Trong lúc nói chuyện với người ấy về hòan cảnh khách quan mà anh ta đang đương đầu, bạn có thể cho anh ta ‘mượn’ công cụ lý trí của chính bạn để sử dụng. Khi làm tất cả những việc này, chúng ta đã thực hành một sự phối hợp giữa hai công việc có tính chất chữa trị, một là nâng đỡ (supportive), hai là thấu hiểu (insight).

Và Alexander đã định nghĩa tâm lý trị liệu “... không gì khác hơn ngòai việc áp dụng một cách có hệ thống, một cách có ý thức những phương pháp mà chúng ta áp dụng để ảnh hưởng lên những người sống xung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Sự khác biệt quan trọng nhất là ở chỗ: nó không đơn thuần dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác mà thay vào đó là phải có sự thiết lập tốt các nguyên lý chung về tâm lý động học (psychodynamics)”[2].

Như vậy, khác với sự giúp đỡ từ một người thân quen thường gặp trong đời sống, “sự hỗ trợ trong tâm lý trị liệu được tiến hành bởi một nhà trị liệu được đào tạo chuyên nghiệp để có thể làm chức năng hỗ trợ người khác mà không nhất thiết phải trở nên gắn kết với thân chủ của mình về mặt đời sống riêng tư” (Goffman; 1962).

Các mục tiêu của tâm lý trị liệu
Tâm lý trị liệu, nói chung, nhắm đến việc làm tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng trưởng thành hơn, chín chắn hơn, và giúp người đó “tự hiện thực hóa bản thân mình”. Các mục tiêu chính của tâm lý trị liệu bao gồm: Gia tăng khả năng thấu hiểu bản thân của thân chủ, tìm kiếm giải pháp cho các xung đột, gia tăng sự tự chấp nhận bản thân của thân chủ, giúp thân chủ có những kỹ năng ứng phó hữu hiệu với những khó khăn, giúp thân chủ củng cố một cái "Tôi" vững mạnh, toàn vẹn và an toàn.

Các bước cơ bản trong tiến trình làm tâm lý trị liệu là: Tạo một bầu không khí quan hệ có tính trị liệu, giải tỏa cảm xúc của thân chủ, tạo sự thấu hiểu nơi thân chủ, giúp thân chủ định hình lại cảm xúc, kết thúc trị liệu[3]

Từ thời cổ đại, Hippocrates, ông tổ của y học phương Tây đã từng kể ra ba công cụ chủ yếu mà một người thầy thuốc có thể sử dụng để chữa bệnh, đó là: cây cỏ, con dao và lời nói. Từ cây cỏ có thể chiết xuất ra các dược liệu, từ con dao có thể cắt bỏ đi những phần cơ thể bị bệnh mà không thể giữ lại được, và từ đó đã dần dần hình thành nên các chuyên khoa nội và ngoại trong y khoa hiện đại. Song chỉ khi có sự hình thành và phát triển của ngành tâm lý học hiện đại và ngành tâm thần học hiện đại, giá trị của việc sử dụng lời nói trong chữa bệnh mới được phát huy thành một phương pháp trị liệu thực sự khoa học. Phương thức trị liệu ấy được một số nhà tiên phong trong lĩnh vực này, như Sigmund Freud gọi là "chữa trị bằng lời nói", tiếng Anh: talking cure mà về sau nó trở thành chuyên ngành tâm lý trị liệu, với rất nhiều trường phái và khuynh hướng khác nhau.

Những yếu tố tạo nên hiệu quả trị liệu
Nhiều yếu tố giúp tạo nên hiệu quả của tâm lý trị liệu đã được nghiên cứu và thừa nhận như bản chất mối quan hệ trị liệu (Goldstein; 1962), sự hữu dụng của lời nói (Bernstein; 1965), lòng tin của người bệnh (hoặc thân chủ) đối với nhà trị liệu (Frank; 1961). Tuy vậy, tác động thực sự của tâm lý trị liệu vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi mãi cho đến hiện nay. Một trong các nghi vấn đó là liệu các cách thức chữa trị bằng lời nói có thực sự chữa trị được các chứng rối lọan tâm trí?

Trong thực tế, việc tranh luận về hiệu quả của tâm lý trị liệu phần lớn xảy ra trong giới chuyên môn, ngay cả giữa những người thực hành tâm lý trị liệu thuộc các trường phái và xu hướng khác nhau. Đánh giá thích hợp nhất sẽ có được, nếu tác động của tâm lý trị liệu đươc xét từ góc độ và địa vị của người bệnh (hoặc thân chủ).

Thân chủ không “nhìn thấy” những học thuyết và lý luận của nhà trị liệu, mà “nhìn vào” hành vi và thái độ ứng xử của họ. Vì thế việc "ai là nhà trị liệu" có khi còn quan trọng hơn cả việc nhà trị liệu áp dụng học thuyết nào, phương pháp nào... Nhà trị liệu là người ở vị thế có ảnh hưởng đối với thân chủ, mà nếu không có sự ảnh hưởng này, việc trị liệu sẽ không còn giá trị. Do vậy tâm lý trị liệu có thể được xem là “nghệ thuật tạo sự khích lệ, và kế đó là sử dụng tầm ảnh hưởng của nhà trị liệu lên thân chủ của mình một cách thuần thục” (Micheal Franz Basch).

Mặt khác, việc xác định hiệu quả của tâm lý trị liệu khó xác định, mà thay vào đó chỉ có thể xem xét được hiệu năng của nó, tức là việc tâm lý trị liệu tạo khả năng để có thể đạt đến một kết quả mong muốn. Theo Gregory Bateson: tâm lý trị liệu “cung cấp một sự khác biệt để tạo nên một sự khác biệt mới”. Nhà tâm lý trị liệu không giúp thay đổi những sự kiện trong thực tế khách quan, mà nhắm đến những thay đổi những gì xảy ra trong thực tại chủ quan của người bệnh hoặc thân chủ. Nói một cách hình tượng thì “nhà trị liệu mang thân chủ đến một điểm, mà ở đó họ không còn cảm thấy tuyệt vọng nữa” (Martin Seligman; 1975).

Nhiều định kiến cho rằng: nhà tâm lý trị liệu thì chữa bệnh cho bệnh nhân bị rối loạn tâm trí, còn các chuyên viên tư vấn (counsellor) giúp tháo gỡ các vấn đề khó khăn trong cuộc sống của thân chủ. Tuy nhiên, cả hai công việc tư vấn và trị liệu tâm lý đều cùng chia sẻ chung những học thuyết, lý luận, kỹ năng và phương pháp. Theo Jessie Bernard (1969), “tư vấn tâm lý giúp con người của thân chủ trở lại hòa hợp với số phận của họ, điều chỉnh bản thân họ khi sống đối mặt với những thất bại và đau khổ. Nhưng nếu những thân chủ ấy có những ứng xử không tuân theo các chuẩn mực hoặc có những rối loạn tâm trí nghiêm trọng, thì việc giúp đỡ những thân chủ ấy sẽ thuộc trách nhiệm của nhà tâm lý trị liệu”.

Tâm lý trị liệu không diễn ra như nhiều người suy nghĩ: Đó không hẳn là việc chữa lành một căn bệnh, không phải là sự hướng dẫn của một nhà thông thái, lời chia sẻ giữa hai người bạn thân, cũng không phải là một quá trình học hỏi những kiến thức.

Tâm lý trị liệu không liên quan đến những điều con người suy nghĩ, mà nó diễn ra qua cách suy nghĩ của con người, nó gây chú ý đến cách thức mà con người suy nghĩ. Nó phân biệt rõ giữa những điều con người đang suy nghĩ đến và cách thức thực hiện suy nghĩ ấy. Tâm lý trị liệu ít quan đến việc tìm kiến những nguyên nhân, để giải thích những gì con người đang làm, nó quan tâm đến việc khám phá những ý nghĩa từ những gì mà con người đang làm (James Bugental, Ph.D.).

Tâm lý trị liệu liên quan đến cách sống với những tình cảm của con người, liên quan đến những quan điểm được áp dụng trong những mối quan hệ giữa người với người, đến những điều con người muốn đạt đến trong cuộc đời và cách thức mà con người cố gắng đạt đến và nó liên quan đến các động lực giúp con người có thể tìm thấy những tiềm năng thay đổi trong bản thân mỗi người.

Chú thích
^ Tự Điển Bách Khoa Y Học Anh-Việt, xuất bản năm 2005, chủ biên: Gs. Ngô Gia Hy, nhà xuất bản Y Học Tp.HCM, trang 784).
^ Individual Psychotherapy, Alexander, 1964, trang 110
^ Abnormal Psychology and Modern Life, 1950, James C. Coleman)

Phẩm chất của Nhà tham vấn


Phẩm chất của Nhà tham vấn
Sau đây tôi xin trích bài viết của các Chuyên gia tham vấn của Trung tâm tham vấn tâm lý Hoàng Nhân (Website: tuvanhoangnhan.com) để mọi người cùng trao đổi và góp ý kiến để làm sáng tỏ những phẩm chất này.

Để có thể trở thành một nhà tham vấn tâm lý cần có nhiều phẩm chất, những phẩm chất này thuộc về tư cách đạo đức, nhận thức...hình thành trong khoảng thời gian khá dài là sự phấn đấu của mỗi nhà tham vấn. Trong đó về cơ bản có những phẩm chất như sau:

- Chấp nhận: Là sự nhiệt tình tôn trọng thân chủ không xét đến điều kiện, hành vi hay địa vị... của họ. Mà theo như Carl Roger – nhà tham vấn nổi tiếng của Hoa Kỳ theo trường phái Nhân Văn thì khả năng chấp nhận thân chủ là “không gán các điều kiện ràng buộc” của thân chủ trong cuộc tham vấn. Khi nhà tham vấn có được thái độ nồng nhiệt tích cực và chấp nhânj đối với những gì thuộc về thân chủ. Nhà tham vấn chấp nhận thân chủ với một thái độ không dè dặt, không phòng vệ không phê phán không giả tạo của nhà tham vấn.

- Trung Thực: Nhà tham vấn thể hiện là một con người đồng nhất nguyên vẹn, tự nhiên không phòng vệ, nhà tham vấn trung thực ngay chính bản thân mình trên cơ sở thống nhất bình diện kinh nghiệm, ý thức, và biểu hiện ra bên ngoài.

- Thấu cảm: Là trải nghiệm những điều mà thân chủ đang trải nghiệm , hiểu được những tình cảm và suy nghĩ bên trong của thân chủ. Có khả năng hiểu thân chủ như chính họ hiểu bản thân mình. Phẩm chất này giúp nhà tham vấn có thể hiểu được cảm giác của thân chủ. Tuy nhiên nhà tham vấn hiểu những cảm xúc của thân chủ mà không hề có cảm xúc giống như thân chủ. Do vậy nhà tham vấn với có được cách nhìn khách quan trong vấn đề của thân chủ.

Ngoài 3 phẩm chất cơ bản trên nhà tham vấn còn bổ xung những phẩm chất khác nữa đó là:

- Không định kiến : định kiến là thái độ sẵn có, một chiều dùng để nhìn nhận ngưòi khác theo quan điểm của mình. Định kiến được thể hiện rõ khi có những khác biệt hoặc bất đồng. Nhà tham vấn không có định kiến với thân chủ thể hiện ở sự cởi mở, sự nồng nhiệt khẳ năng chấp nhận thân chủ mà không buộc thân chủ phải giống mình, cũng như nhà tham vấn không cố gắng thuyết phục thân chủ làm theo quan điểm niềm tin của mình. Chính phẩm chất này ảnh hưởng khả năng chấp nhận của thân chủ.

- Tin tưởng ở bản thân: Nhà tham vấn thể hiện tính nội tâm cao, có sự kiểm soát bản thân từ bên trong hơn sự ảnh hưởng từ bên ngoài. Họ tin rằng số phận của họ nằm trong chính tay họ. Nguời có lòng tự tin có khả năng phê và tự phê, họ biết đánh giá ý kiến của người khác và tiếp nhận ý kiến của người khác với sự cân nhắc kỹ lưỡng. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong tham vấn là giúp cho thân chủ tự đương đầu với vấn đề của chính mình. Điều này chỉ có thể xảy ra ở những nhà tham vấn tự tin và có khả năng đương đâù với vấn đề của chính mình.

- Nhà tham vấn phải có một tinh thần khoẻ mạnh: Một nhà tham vấn chuyên nghiệp là một nhà tham vấn mà có một đời sống tinh thần khoẻ mạnh và khi gặp khó khăn tinh thần họ biết cách tự trị liệu cho bản thân, hoặc tìm sự giúp đỡ tích cực từ nhà tham vấn khác. Bởi nếu một nhà tham vấn có một tinh thần mệt mỏi và tiêu cực chắc chắn có ảnh hưởng đến những thân chủ của mình:

+ Họ sẽ phóng chiếu những cảm xúc âm tính của mình lên thân chủ.

+ Họ sẽ không có khả năng hiểu được vấn đề của thân chủ.

+ Nhà tham vấn không có khả năng thấu hiểu và giúp thân chủ có khả năng đương đầu với vấn đề của chính mình.

- Có khả năng xây dựng sự hợp tác: Phẩm chất này nói lên tính liên kết chấp nhận và trách nhiệm của nhà tham vấn với đồng nghiệp của mình. Mà khả năng xây dựng sự hợp tác phụ thuộc vào nhân cách của nhà tham vấn và quan điểm tiếp cận trong tham vấn. Hai yếu tố này đồng nhất để đạt được hiệu quả.

- Nhà tham vấn phải có năng lực chuyên môn: Năng lực chuyên môn là một trong những phẩm chất quan trọng dẫn tới sự thành công trong tham vấn. Họ phải là người có kiến thức về tâm lý học về tham vấn, là người vận dụng tốt các kiến thức và nguyên tắc đạo đức, pháp lý trong tham vấn. Họ là người được thường xuyên tham gia các khoá học đào tạo và nâng cao năng lực chuyên môn. Các nhà tham vấn có năng lực thường chỉ chấp nhận làm việc ơ rnhững vị trí tương đương khả năng của họ và họ tham gia vào các hiệp hội các tổ chức tham vấn chuyên nghiệp.

Như vậy chúng ta có thể nhận thấy là để trở thành một nhà tham vấn có những phẩm chất nhất định, những phẩm chất này không phải được tạo dựng ngày một ngày hai mà là một quá trình học tập, phấn đấu và rèn luyện của mỗi nhà tham vấn
(nguồn: Nhathamvan)

Khi nào nên đi tham vấn và thời gian tham vấn?


Khi nào nên đi tham vấn?

Ở các nước phát triển việc chăm sóc đời sống tinh thân của bản thân rất được coi trọng, vì vậy dịch vụ tham vấn trở nên rất thân thuộc với mỗi người, giống như khi ta có bệnh thì cần phải cần đến bác sỹ y khoa, chỉ có điều các bác sỹ mà ta tìm đến lúc này chính là các bác sỹ tâm hồn.

Khi nào bạn cảm thấy mình có những triệu chứng của bệnh tinh thần? Ngành khoa học tâm lý có cả một bộ môn chyên về chẩn đoán và phân loại bệnh. Dưới đây chỉ là một vài gợi ý với bạn về việc khi nào ta cảm thấy cần đến gặp các nhà tham vấn:

Khi bạn cảm thấy mình không hài lòng và thấy khó chịu, hoặc bất lực trong một mối quan hệ nào đó với những người xung quanh.

Khi chính bạn là người thường gây bất bình cho những người xung quanh.

Khi bạn hoặc người xung quanh bạn nhận thấy ở bạn gần đây ở bạn xuất hiện những cá tính mà hiếm khi thấy hoặc không có trong hành động tiền lệ của bạn.

Khi bạn cảm thấy cô đơn, buồn chán, lo âu, căng thẳng, đau khổ, sợ hãi, …những điều này lặp đi lặp lại và ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại của bạn

Khi bạn tự nhận thấy hoặc những người thân của bạn nhận thấy rằng bạn nói nhiều, hoăc không muốn giao tiếp trong một thời điểm nào đó và luôn không cảm thấy hài lòng trong cuộc sống hiện tại

Tính phi lý trong nhận thức của bạn biểu hiện ra bên ngoài hành động mà ngưòi ngoài cho là không bình thường

Khi bạn cảm thấy không thích nghi hoặc khó thích nghi, điều này ảnh hưởng đến mục tiêu hoặc những hoạt động bình thường của bạn và những người xung quanh.

Trên đây chỉ là một vài các biểu hiện có thể dễ dàng nhận thấy khi bạn đang có vấn đề trong đời sống tinh thần, khi đó bạn cần có người trợ giúp để vượt qua khó khăn bằng cách hãy tìm đến với những nhà tham vấn tâm lý chuyên nghiệp. Chúc bạn may mắn.

Thời gian tham vấn?
Dịch vụ tham vấn trực tiếp chưa trở nên phổ biến ở nước ta, vì vậy những thông tin và hiểu biết về dịch vụ này còn nhiều hạn chế, khách hàng thường nghĩ rằng chỉ cần đến gặp nhà tham vấn một vài tiếng đồng hồ là có thể giải quyết được vấn đề của mình, nhưng không phải như vậy.

Khoa học tâm lý đã chỉ ra rằng con người chỉ có khả năng tập trung chú ý cao độ về một vấn đề nào đó trong khoảng 45-50 phút. Do đó mỗi buổi tham vấn để có được hiệu quả cao nhất thường kéo dài khoảng 50 phút, tuỳ thuộc vào vấn đề của khách hàng.

Khoảng thời gian tham vấn cho mỗi vấn đề của khách hàng là khác nhau, có khách hàng chỉ cần một vài buổi, có những khách hàng là 2-3 tuần thậm chí có vấn đề có thể kéo dài từ 6-12 tháng tuỳ thuộc vào vấn đề của thân chủ. Bởi mỗi vấn đề được nảy sinh từ nhiều nguyên nhân, hình thành và phát triển trong một quá trình do đó muốn giải quyết cũng phải có khoảng thới gian nhất định. Bạn có thể tham khảo thời gian tham vấn với các vấn đề dưới đây:

Tham vấn về vấn đề lạm dụng như: tham vấn với môt trẻ vị thành niên bị lạm dụng về tình dục thường diễn ra trong khoảng 6-12 tháng trong đó là 3 lần/tuần

Tham vấn gia đình về những bất hoà trong mối quan hệ khoảng 6-12 tuần trong đó mỗi tuần từ 1-2 lần, các tuần sau sẽ quyết định cụ thể.

Tham vấn việc khách hàng cảm thấy chán nản, thất vọng, đau khổ… thường từ 2-4 lần, trong đó mỗi tuần 1-2 lần, có thể cũng chỉ cần tham vấn 1 lần.

Tham vấn gia dình như ly thân, ly hôn..khoảng 6-12 tháng trong đó 1lần/tháng Tuỳ thuộc gia đình có thể chỉ chỉ cần 3 lần.

Với trẻ vị thành niên ví dụ như trẻ nghiện game, trẻ có ý định tự sát hoặc đã từng tự sát không thành công… thời gian nhà tham vấn làm việc với trẻ khoảng 3-6 tháng, mỗi tuần 2/lần và có những buổi làm việc cùng với gia đình hoặc với riêng bố mẹ trẻ.

Hỗ trợ trẻ có rối loạn phát triển như trẻ chậm phát triển, trẻ có hội chứng tự kỷ, trẻ chậm nói… thường tham vấn với cha mẹ 1-2 buổi và làm việc với trẻ 6 – 12 tháng.

Tuỳ thuộc vào vấn đề, yêu cầu, cũng như thời gian của thân chủ mà nhà tham vấn và thân chủ sẽ có kế hoạch làm việc cụ thể.
Nguồn: Nhathamvan (blog.360,yahoo.com)

23 tháng 4, 2008

Tiết kiệm Tín Dụng Cộng đồng


Tiết kiệm Tín Dụng Cộng đồng


Diana Mitlin

Giới thiệu

Chương trình tín dụng – tiết kiệm cộng đồng đã trở thành một trong những công cụ mạnh nhất nhằm tập hợp người dân và các nhóm khác nhau tồn tại trong các cộng đồng nghèo. Do người dân cộng đồng tự quản lý, các chương trình TK –TD được hình thành dựa vào nguồn lực của chính họ. Người dân có thể phát triển và cung cấp theo nhu cầu của họ, kể cả cá nhân và nhóm, thông qua tiến trình xây dựng nội quy, đưa ra các quyết định cụ thể đó chính là bản chất tự nhiện trong quản lý tập thể của chương trình TK-TD.

Một trong các vấn đề mà người nghèo đô thị luôn phải đương đầu chính là thiếu khả năng tiếp cận được các dịch vụ nhà ở và đất đai với sự sở hữu hợp pháp. Tại nhiều thành phố ( đặc biệt tại các đô thị lớn), người nghèo không đủ khả năng để mua đất thông qua các hệ thống thị trường chính quy. Nguồn thu nhập không chính quy của họ thấp hơn nhiều so với yêu cầu cần thiết để mua nhà. Mâu thuẫn gay gắt giữa 2 hệ thống chính quy và phi chính quy, đặc biệt nhưng không phải là sự ngoại lệ trong lĩnh vực liên quan đến nhà ở. Chẳng hạn người nghèo gặp rất nhiều khó khăn khi phải trả khoản vay tín dụng nhà với thời hạn định kỳ. Thậm chí ngay khi hệ thống chính quy cho người nghèo vay tín dụng, việc trả định kỳ hàng tháng sẽ gây khó khăn cho những người có nguồn thu nhập không chính quy. Đồng thời các khu đất khả thi và có vị trí tốt thường rất hiếm hoi. Một khi có được một miếng đất an toàn và gần nơi làm việc, người nghèo có thể xây dựng dần dần theo khả năng của họ. Tuy nhiên, do sự chênh lệch quá lớn giữa mức thu nhập bất công và sự đầu cơ, giá cả của các khu đất có vị trí tốt thường rất cao ở nhiều các thành phố lớn. Đầu cơ có nghĩa là đất sẽ bị bỏ trống nhưng thiếu phương tiện an toàn, làm cản trở cho những người chiếm dụng muốn đầu tư phát triển. Trái lại, có thể tồn tại các khu đất nhưng có vị trí không hấp dẫn hoặc là khu vực nguy hiểm, hoặc rất xa thành phố. Vì vậy không hề có sự tương đồng giữa các hệ thống nhà ở chinh quy và phi chính quy. Trong hoàn cảnh như vậy, ngươié nghèo khó có thể xác định và nắm giữ việc cải thiện địa phương.

Các chương trình nhà ở của chính phủ thường tìm kiếm sự phân phát bao cấp các phúc lợi. Tuy nhiên các chương trình bao cấp này thường gặp nhiều vấn đề. Cơ chế tập trung tạo ra bộ máy quan liêu với nhiều bước và thủ tục, mất nhiều thời gian và chi phí cao; cũng thường đẻ ra bệnh tham ô. Do thiếu sự hiểu biết về cuộc sống của người nghèo, kết quả là các hệ thống này thường không với tới các nhóm mục tiêu cần hỗ trợ. Thay vào đó, sự phân phối nhà ở thường dành cho nhóm người không quá nghèo. Ngay trong chương trình bao cấp nhà ở, đa số các hộ nghèo không đủ khả năng tài chính để theo các dự án phúc lợi làm họ bị cô lập ra khỏi các hỗ trợ quan trọng từ cộng đồng, chỗ dựa trong cuộc sống của người nghèo. Do số lượng người nghèo cùng các vấn đề của họ ngày một tăng lên, các tổ chức hỗ trợ và sự quan tâm của chính phủ cũng tăng lên nhằm giải quyết các vấn đề. Tuy nhiên có rất ít các tổ chức hay chuyên gia quốc tế nghiên cứu các giải pháp mà người nghèo đang sử dụng. Vì vậy tác động của các giải pháp này còn ở mức hạn hẹp.

Ở khắp nơi, người nghèo thường bị cô lập: sống phân tán, thiếu tổ chức nên họ không có sức mạnh để thương thuyết hay tham gia ra quyết định trong cuộc sống của mình. Kết quả là người nghèo không có nguồn lực đảm bảo, cũng không thể gây ảnh hưởng đến các chính sách. Thậm chí ngay trong các trường hợp họ được quyền cùng tổ chức thực hiện, còn rất nhiều giới hạn về năng lực để đem lại sự thành công. Họ có thể có được sự nhượng bộ của chính phủ, nhưng ít khi phát huy được tất cả những ưu thế của mình; có vẻ như được sự cam kết nhưng lại không được đưa vào thực thi. Chỉ khi nào các tổ chức của người dân phát triển được khả năng quản lý và kinh nghiệm phát triển cộng đồng, họ mới không còn tiếp tục bị lãng quên.

Ở nhiều quốc gia, sự yếu kém trong phát triển tài chính cũng có nghĩa làcó rất ít cơ hội chính thức cho các hoạt động TK-TD trong các khu thu nhập thấp. Tuy nhiên bản thân tài chính chưa phải là câu trả lời, sự thiếu hụt vốn đầu tưcòn bao hàm nhiều vấn đề khác. Bên cạnh việc tạo cơ hội củng cố các tổ chức cộng đồng và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu, các hoạt động TK-TD có thể là sự khởi đầu cho các tổ chức tài chính trong cộng đồng nghèo. Một khi các nhóm TK được nối kết với các tổ chức cung cấp vốn thì cũng đồng thời tạo ra một xu thế phát triển mạnh mẽ hơn nhằm mở rộng các hoạt động tài chính của địa phương. Nó cũng cung cấp cho các cộng đồng nghèo một khả năng thanh toán tiền mặt theo yêu cầu của sự phát triển.

Bài viết này sẽ trả lời các câu hỏi làm thế nào và tại saoTK-TD có thể hỗ trợ tiến trình chuyển tiếp giúp đỡ hiệu quả cho các thành viên nghèo nhất của cộng đồng thu nhập thấp. Bài viết sẽ đưa ra các kinh nghiệm đặc biệt nhưng không ngoại lệ của Văn phòng PTCĐ đô thị Thái Lan.

Phần 2 sẽ thảo luận tiến trình lien quan đến TK-TD một cách chi tiết và diễn giải làm thế nào các hoạt động này có thể trở thành cầu nối với các nguồn lực bên ngoài đến người nghèo và vì sao nó chứng minh được là một hình thức cụ thể can thiệp hỗ trợ phát triển.

Phần 3 sẽ xem xét một cách đặc biệt việc sử dụng vốn vay phát triển nhà ở và các tổ chức bên ngoài có thể ảnh hưởng bằng cách sử dụng các hình thức tín dụng và những điều kiện đặc biệt.

Phần 4 tìm hiểu tiến trình cộng đồng được thúc đẩy thông qua TK-TD

phần 5 sử dụng các kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan để khám phá một số các tiến trình quản lý quan trọng hơn có liên quan.

PHẦN 2 - VÌ SAO CẦN TIẾT KIỆM VÀ TÍN DỤNG

Các hoạt động TK-TD dựa trên cộng đồng đem lại rất nhiều lợi ích.

Trước hết, nó tập hợp người dân lại với nhau một cách định kỳ và liên tục. Nó tạo cơ hội cho các thành viên trong các khu thu nhập thấp phát triển dần dần sức mạnh của họ thông qua tiến trình lập quyết định tập thể cho các hoạt động cụ thể của cộng đồng.

Thứ 2 là, cơ chế tài chính xây dựng dựa trên haọt động tiết kiệm ngày; tiết kiệm và cho vay nhanh, đơn giản và thiết thực cho các nhu cầu hàng ngày của người nghèo đô thị– do chính người nghèo xác định.

Ba là, các hoạt động TK-TD cung cấp cho người nghèo đô thị nguồn lực của chính họ nhằm giải quyết các các nhu cầu cơ bản của mình.

Bốn là điều này hết sức quan trọng, tiến trình tạo ra sự lien tục tìm hiểu lẫn nhau về cuộc sống của mọi người trong cộng đồng, về cách thức cùng nhau quản lý và nối kết với hệ thống bên ngoài, tạo ra sức mạnh tài chính lớn hơn đem lại hiệu quả và thành công cao hơn không chỉ đáp ứng các nhu cầu hang ngày. Nó là một tiến trình mà mỗi thành viên cộng đồng đều được tham gia cùng kiểm soát. Nó là một tiến trình dần từng bước đem lại cho cộng đồng những năng lực và sự tự tin cần thiết cho một tiến trình tự phát triển một cách thực sự. Từ đó người nghèo có thể tự hào để trở thành người chủ của tiến trình, chứ không còn là người thụ hưởng, trông chờ sự giúp đỡ nhân đạo từ bên ngoài.

Các hoạt động TK-TD không chỉ là cái đích cuối cùng mà đó là một phương tiện nhằm củng cố tiến trình cộng đồng. Qua đó người dân có thể cùng NHAU THỰC hiện đáp ứng các nhu cầu đa dạng của mình. Một khi người dân cùng ngồi lại với nhau, đó là cơ hội để nối kết TK với các vấn đề cần giải quyết có liên quan. Ví dụ nếu mục tiêu muốn đạt là nhà ở, thường sẽ vượt quá khả năng cấp thời của cộng đồng, lúc ấy nhu cầu của nhóm sẽ là tìm hiểu các yêu cầu đòi hỏi liên quan đến nhà ở. Họ cần phải phát triển đồng thời một tiến trình khác, TK và TD song song nhằm tìm kiếm đất đai, tìm kiếm sự hỗ trợ, thương thảo về giá cả và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Với phương thức này, toàn bộ các yếu tố quan trọng trong tranh đấu tìm kiếm chỗ ở sẽ được đem ra cùng nhau thảo luận và xem xét.
nhằm củng cố tiến trình cộng đồng. Qua đó người dân có thể cùng nhau thực hiện đáp ứng các nhu cầu đa dạng của mình. Một khi người dân cùng ngồi lại với nhau, đó là cơ hội để nối kết TK với các vấn đề cần giải quyết có liên quan. Ví dụ nếu mục tiêu muốn đạt là nhà ở, thường sẽ vượt quá khả năng cấp thời của cộng đồng, lúc ấy nhu cầu của nhóm sẽ là tìm hiểu các yêu cầu đòi hỏi liên quan đến nhà ở. Họ cần phải phát triển đồng thời một tiến trình khác, TK và TD song song nhằm tìm kiếm đất đai, tìm kiếm sự hỗ trợ, thương thảo về giá cả và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Với phương thức này, toàn bộ các yếu tố quan trọng trong tranh đấu tìm kiếm chỗ ở sẽ được đem ra cùng nhau thảo luận và xem xét.

Kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Á cho thấy rằng các nhóm TK-TD rải rác phân tán khi được hỗ trợ để học hỏi lẫn nhau và có được sự xúc tác thích hợp để nối kết giữa các nhóm khác nhau tạo thành mạng lưới, họ sẽ trưởng thành hơn. Các mạng lưới này tạo cơ hội cùng nhau góp vốnTK thành một quỹ vốn chung. Mạng lưới cũng tạo điều kiện để các nhóm có thể tiếp cận nguồn tài chính lớn hơn và củng cố tư cách pháp nhân của nhóm nhằm thương thuyết sự hỗ trợ từ bên ngoài. Bởi vì mạng lưới làm cho các nhóm trở nên mạnh hơn, nên càng thúc đẩy họ mở rộng hơn sự hợp tác nối kết giữa các cộng đồng nghèo đô thị.

Tiến trình này mang ý nghĩa chính trị sâu sắc bởi vì nó chỉ ra một đặc điểm quan trọng của sự thiếu quyền lực của dân nghèo đô thị - sự cô lập. Việc nâng cao vai trò mạng lưới rộng lớn tạo điều kiện để ngươì nghèo có khả năng ứng phó với các vấn đề mang tinh hệ thống thực tiễn hơn – các vần đề trước đây ngoài tầm khả năng của họ. Mạng lưới nâng cao vị trí thương thảo của người nghèo, bởi vì họ có thể chứng tỏ tính khả thi, tiến trình tự quản của cộng đồng. Trong 2 – 3 năm qua (bài viết này thực hiện năm 2001, cập nhật các mạng lưới TK-TD cộng đồng, xem), đã có hơn 100 mạng lưới như vậy hình thành ở Thái Lan. Kết quả là đã mở rộng các hoạt động và vai trò trong các cộng đồng nghèo đô thị ; và sự tồn tại của họ được chấp nhận rộng rãi hơn trong các chính quyền địa phương và cấp trên. Các mạng lưới này cũng đã bắt đầu hợp tác với chính quyền thành phố và các tổ chức địa phương trên các vấn đề thiết yếu liên quan đến cuộc sống của các thành viên như : quyền công dân, quyền nhà ở, dịch vụ phúc lợi, tổ chức kinh tế cộng đồng, môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Nếu như các tiến trình cộng đồng này trở nên mạnh mẽ hơn có thể liên kết với các nguôn bên ngoài về tài chính tín dụng, thì các cộng đồng thu nhập thấp có khả năng tiếp cận và quản lý các nguồn tài chính mà họ cần để hỗ trợ các tiến trình phát triển của người dân.

Dưới đây là những giới thiệu về tổ chức Văn Phòng Phát Triển Cộng Đồng Đô Thị Thái Lan, đã cố gắng trở thành một nguồn lực bên ngoài như vậy. Các nhóm TK-TD hay các tổ chức cộng đồng khác chẳng hạn các hợp tác xã cộng đồng có thể giúp nối kết các hệ thống chính quy và phi chính quy – chính quy bên ngoài và phi chính quy bên trong cộng đồng – làm cho các nguồn tài chính được chuyển giao thuận tiện dễ dàng từ nơi này sang nơi kia, cùng sự thay đổi cơ chế giữa hai hệ thống khác biệt. Chức năng cầu nối này rất quan trọng, để nguồn tài chính bên ngoài được người nghèo sử dụng không làm tăng thêm khả năng tổn hại của họ. Ví dụ, một cá nhân làm việc trong thành phần kinh tế không chính quy sẽ gặp khó khăn phải trả định kỳ hàng tháng, nhưng một nhóm lớn có thể giúp các thành viên mở rộng khả năng trả cuả họ. Tiết kiệm cộng đồng được sử dụng nhằm cầu nối tài chính đặc biệt cho những tháng gặp khó khăn. Hai nguồn lực kết hợp với nhau : tiết kiệm cộng đồng và các hoạt động cho vay kết hợp với nguồn tín dung bên ngoài tạo ra một sự xúc tác mạnh mẽ cho sự phát triển.

UCDO được thành lập vào năm 1992 như một sự cố gắng của chính phủ Thái Lan nhằm thực hiện một phương thức mới và phát triển một tiến trình mới nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói đô thị Chính phủ đã cung cấp một quỹ quay vòng 1,250 triệu Baht (khoảng 32 triệu đô la Mỹ) thông qua Bộ Nhà Ở (National Housing Authority ) nhằm thiết lập một chương trình đặc biệt và một văn phòng độc lập, Văn Phòng Phát triển Cộng Đồng Đô thị (Urban Community Development Office) nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói đô thị quy mô quốc gia. Chương trình cố gắng cải thiện điều kiện sống và nâng cao năng lực tổ chức của các cộng đồng nghèo bằng việc khuyến khích phát triển các nhóm TK-TD cộng đồng và cung cấp tín dụng tổng hợp với lãi suất thích hợp như một khoản vay trọn gói cho các tổ chức cộng đồng. Nguồn Quỹ Phát Triển Cộng Đồng Đô thị này giúp cho tất cả các nhóm nghèo đô thị, các nhóm dược tổ chức, đều có thể tiếp cận và đăng ký vay tín dụng cho các dự án phát triển của họ. Tổ chức bao gồm một Ban Quản trị chịu trách nhiệm về tất cả các quyết định về chính sách của UCDO. Mặc dù UCDO là một bộ phận đặc biệt nằm dưới Bộ Nhà Ở, Ban Quản trị UCDO có thẩm quyền ra các quyết định độc lập. Điểm mấu chốt là sự kết hợp các thanh viên của Ban QT bao gồm 4 vị từ các tổ chức cơ quan chính phủ (Ngân Hàng Thái Lan, Bộ Tài Chính, NESDB, Văn Phòng Nâng Cấp đô thị , Bộ Nhà Ở) ; 4 vị lãnh đạo cộng đồng, 1 vị đại diện NGOs và 3 vị chuyên viên và khu vực tư nhân. Ông Bộ trưởng Nhà Ở làm Chủ tịch và Giám đốc Quản Lý UCDO là thư ký của Ban. Dự án cung cấp một « hệ thống tín dụng tổng hợp » nhằm mục đích phát triển cộng đồng. Điều này nhằm loại bỏ cách tiếp cận rời rạc cũng như sự thu hút các nhu cầu tổng hợp của cộng đồng. Các hình thức tín dụng bao gồm từ các hoạt động tăng thu nhập đến quỹ quay vòng nhà ở. Vì vậy, cộng đồng có thể tiến hành xây dựng một Quy Hoạch Phát Triển Cộng Đông nhằm thực hiện trong một giai đoạn nhất định, dựa vào đó UCDO hỗ trợ tín dụng. Các hoạt dộng của UCDO càng mở rộng , các hình thức tín dụng càng đa dạng xuất phát từ nhu cầu đa dạng của cộng đồng. Các hình thức tín dụng hiện có của tổ chức bao gồm :
Loại hình tín dụng
Lãi suất (%)
Thời hạn vay tối đa

PHẦN 3 - TÍN DỤNG NHÀ Ở

Trên thực tế, người nghèo đô thị đã từ lâu đầu tư vào nhà ở dù dưới hình thức hợp pháp hay không hợp pháp, tạm bợ hay lâu dài, bằng tiền mặt hay vay mượn không chính thức. Người nghèo đô thị và thành phần phi chính quy đã tạo được sản phẩm nhà ở lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác trong vùng Châu Á, thông qua sự sáng tạo, hiệu quả, một phôi hợp chặt chẽ giữa nhà ở và khả năng tài chinh, kết hợp cùng cơ hội việc làm và các nhu cầu phức tạp khác của người nghèo. Tuy nhiên do hầu hết những ngôi nhà này đều bất hợp pháp, việc chiếm hữu của họ là không an toàn, luôn bị đe dọa bởi các thế lực nấp bóng tham nhũng của hệ thống chính quy. Đây là sự thật hai mặt trong vấn đề định cư của người nghèo, hàng loạt các vấn đề và khả năng to lớn cùng tồn tại song song.

Rất đáng tiếc là hầu hết các tổ chức nhà ở và phúc lợi lạc hậu đều không nhìn thấy khả năng này của các cộng đồng thu nhập thấp. Các giải pháp chuyên môn làm cho người dân trở thành phụ thucộ và cô lập. Họ khuyến khích người dân để họ phải nhận lãnh một gánh nặng tài chính lớn hơn trong việc cung cấp nhà ở cho người nghèo theo phương thức lạc hậu. Hậu quả là người dân thường không đủ khả năng mua nhà định cư. Vai trò quan trọng của tín dung cho việc định cư là nhằm hỗ trợ tiến trình nhà ở của chính người dân, tăng cường khả năng có sẵn một cách có tổ chức.

Liên quan đến các hỗ trợ bên ngoài đối với các hoạt động TK-TD về nhà ở, một số các kinh nghiệm khác nhau ở Châu Á đưa đến một số các kết luận sau :

a. Nhất thiết cần có một tiến trình nhóm

Các nhóm tiết kiệm cộng đồng giúp tập hợp người dân ngồi lại cùng nhau trong một tiến trình mà tất cả cùng tham gia và cùng nhau tổ chức. Sau một thời gian nhóm mở rộng việc cho vay đến các thành viên. Cho vay về nhà ở là một tiến trình đặc biệt quan trọng được bao hàm trong đó. Khi một cộng đồng có nhu cầu vay định cư – để sửa chữa hay xây dựng nhà, để mua một khu đất mới hay hiện hữu và xây dựng nhà mới – điều này có thể giúp phát triển năng lực của nhóm. Nhóm như một phương tiện vận chuyển chung và một tiến trình kết hợp thông qua đó mỗi thành viên nghèo đô thị có thể đạt dược sự tiếp cận các nguồn tài chính, nó giúp hấp thụ và thay đổi hệ thống tài chính chính quy với những bước chuẩn bị phi chính quy giữa các thành viên cộng đồng.

b. Cần có sự bao cấp trong tín dụng nhà ở cho người nghèo

NHà ở cho người nghèo cần một vài sự bao cấp giúp cho người nghèo có khả năng thanh toán. Đối với tín dụng nhà ở, bao cấp trong lãi suất là hình thức áp dụng phổ biến. Hầu hết các nguồn tín dụng cho nhà ở hiện có ở Châu Á đều có lãi suất thấp hơn thị trường. Ngân hàng Grameen cung cấp tín dụng nhà ở với lãi suất 8 %, so với lãi suất khoảng 18% đối với các khoản cho vay khác. Tín dụng của CMP có lãi suất là 6%, tín dụng của UCDO có lãi suất là 3% và các khoản vay khác có lãi suất từ 8 đến 10%. Một số chương trình của chính phủ có thể có lãi suất không thấp hơn nhưng bao cấp nhà ở dưới hình thức khác – thông qua việc cung cấp đất và cơ sở hạ tầng, hay bằng bao cấp có đầu tư hạch toán lãi hoặc bao cấp chi phí hành chính. Trong một số trường hợp các khu vực giácả chênh lệch hay kích thước lô đất khác nhau được áp dụng trong một dự án/một chương trình nhằm tự hạch toán thu chi đảm bảo tất cả các nhóm thu nhập đều có khả năng thanh toán Có rất nhiều yếu tố và khả năng có thể áp dụng để bao cấp nhà ở cho người nghèo thông qua tiến trình cân đối tài chính trong mối quan hệ gần gũi với hệ thống tín dụng về nhà ở. Nhóm và mạng lưới đóng một vai trò quan trọng để giài quyết các vấn đề này theo một cách thích hợp nhất.

c. Người nghèo sẽ gặp khó khăn và không đủ khả năng để mua cả hai tín dụng nhà và đất

Kinh nghiệm của UCDO của Thái Lan cho thấy các khoản vay bao cấp có sẵn dễ dàng (với lãi suất cho tín dụng dự án nhà ở là 3% năm cho nhóm), một số cộng đồng bị giải tỏa đã đăng ký các khoản vay để mua đất và xây dựng nhà mới. Điều này tương tự như đa số các dự án phát triển kinh doanh nhà. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy nếu người nghèo phải trả cả tiền đất và nhà, chỉ có khoảng một nửa số gia đình nghèo đô thị tại các cộng đồng hiện hữu có đủ khả năng thanh toán. Nếu họ có thể mua một khu đất giá rẻ thì sẽ thường là rất xa khu ở hiện tại và xa thành phố. Công ăn việc làm trở thành một vấn đề nan giải và họ sẽ không thể trụ lại nơi ấy. Vì vậy, điểm quan trọng là tín dụng nhà ở rất phụ thuộc vào khả năng thanh toán của những người vay tiền. Một giải pháp tích cực sẽ là chính phủ cần cung cấp đất cho các nhóm cộng đồng và họ sẽ phát triển nhà ở với các khoản tín dụng hợp tác chung.


d. Tín dụng nhỏ và đơn giản cho xây dựng cơ bản nhà ở

Các phụ nữ ở Mahila Milan, Ấn Độ đã trải qua một tiến trình lâu dài để phát triển một mô hình nhà ở đơn giản và rẻ tiền, hiện trở thành mẫu nhà cơ bản cho tất cả các thành viên của tổ chức. Trong tiên trình kế hoạch cộng đồng giúp tạo ra các mô hình nhà, giá cả, tính toán cho tất cả loại hình xây dựng nhà cũng như thảo luận kỹ càng về các chức năng kế hoạch nhà ở. Đây chính là tiến trình nhà ở của cộng đồng nó tạo ra các mẫu thiết kế nhà phù hợp gần gũi với khả năng chi trả. Một hệ thống tín dụng đòi hỏi phải có nhiều lựa chọn các hình thức nhà ở linh hoạt phù hợp cho các đối tượng khác nhau. Mỗi đối tượng đều tìm kiếm các giải pháp khác nhau với giá cả khác nhau. Tuy nhiên, đối với người dân trong các cộng đồng nghèo, việc cùng nhau tạo ra loại hình nhà ở đơn giản, cơ bản là điều hợp lý hơn và là mong muốn chung. Nhằm đảm bảo tiền vay chỉ được sử dụng vào việc đầu tư thiết yếu và tạo điều kiện có khả năng mở rộng nếu họ mong muốn, phù hợp với khả năng tài chính của những người nghèo nhất.

e. Kết hợp với việc phát triển cần thiết khác

Một khi cộng đồng bắt đầu thành lập các nhóm TK-TD, đó cũng là điểm thuận lợi nhằm huy động hàng loạt các hoạt động tín dụng khác. Các cộng đồng cũng bắt đầu học cách kết hợp các kế hoạch xây dựng nhà ở và các nhu cầu có liên quan khác, chẳng hạn nhu cầu các hoạt động tăng thu nhập, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường. Nhóm có thể tìm kiếm được các hỗ trợ hay được bao cấp một phần từ các tổ chức bên ngoài thông qua sự kết hợp với các cơ hội vay tín dụng để giải quyết các nhu cầu phát triển của cộng đồng một cách tổng hợp hơn mặc dù vẫn dưạ trên cơ sở dần từng bước một. Đây là tiến trình thực hiện qua đó các vấn đề liên quan đến nhà ở được kết hợp với tất cả vấn đề phát triển và nhà ở giúp người nghèo hiểu rõ hơn các vấn đề có liên quan và các lựa chọn của họ. Làm việc với tiến trình này cũng tạo điều kiện giúp người nghèo đô thị tự tổ chức các khu định cư an toàn cho chính họ.

f. Một vài giới hạn cho chi phí của nhóm

Cần có một thể chế qua đó các nhóm cộng đồng có thể tìm được nguồn giới hạn để trang trải các chi phí cần thiết của nhóm liên quan đến sự quản lý và thúc đẩy tiến trình. Phát triển nhà ở đòi hỏi nhiều bước phức tạp và sự hợp tác – cần nhiều chuyến công tác để làm việc với chính quyền địa phương và các chi phí di chuyển, rất nhiều các kế hoạch cần được thực hiện, các giấy tờ tài liệu cần sao y. Đồng thời, một số người nghèo đô thị phải đối phó với các vấn đề gia đình hay vấn đề công việc nếu thu nhập của họ bị gián đoạn. tất cả những chi phí này cần có một khoản tiền nhất định để bao cấp trang trải. Vì vậy một giới hạn cho chi phí quản lý nhóm như trên là rất cần thiết. Một điểm quan trọng là mọi sự sao nhãng bỏ qua có thể tạo ra các vấn đề khó giải quyết.

Trong trường hợp của UCDO, tín dụng nhà ở cho nhóm có lãi suất 3%, các nhóm có thể cộng thêm một khoản lãi suất chênh lệch 3 – 5% cho các loại chi phí quản lý nhóm. Lãi suất đối với các thành viên sẽ là 6 – 8%.

PHẦN 4 - TIẾN TRÌNH CỘNG ĐỒNG – công cụ và chìa khóa

Tiến trình mà các tổ chức Châu A đang sử dụng ở cấp cộng đồng và tại các tổ chức chính phủ đã và đang hỗ trợ các nhóm TK – TD cộng đồng.

Đối với tổ chức của những người dân đường phố và Mahila Milan ở Bombay, các hoạt động tiết kiệm nhà ở hàng ngày đã liên kết người dân với một mục đích cụ thể là nhà ở và họ bắt đầu tiến trình làm việc cùng nhau nhằm đạt được sự đảm bảo một yếu tố rất khó khăn, đó là đất và cơ sở hạ tầng. Tiết kiệm ngày gặp nhiều khó khăn ở giai đoạn đầu tại Thái Lan. Giá trị của nó rất ít khi được chấp nhận. Như sự trình bày tại khung 2, hiện nay nó đã được chấp nhận một cách rộng rãi và đã chứng minh sức mạnh trong cơn khủng hoảng tài chính.

Ý tưởng tiết kiệm ngày được phát sinh trước hết từ các cộng đồng nghèo của Ấn Độ và Nam Phi và nó đã được mở rộng thực hiện ở cấp quốc gia. Người dân cộng đồng rất ủng hộ nhưng các chuyên viên UCDO thì không đồng tình. Sau hai năm đã có sự thay đổi chuyển dần sang việc khuyến khích tiết kiệm ngày, được xem như một phần quan trọng để tìm kiếm những hệ thống hiệu quả hỗ trợ người nghèo. Mạng lưới của Thái lan hiện đang mong muốn áp dụng tiết kiệm ngày nhằm giải quyết các khó khăn trong chi trả và cũng nhằm đạt tới một tiến trình rộng rãi hơn. Vì sao nó hiệu quả hơn ?

Tiết kiệm ngày là phương tiện giải quyết sự khủng hoảng trong chi trả
Nếu người dân không có khả năng chi trả tín dung hàng tháng, điều đó gây khó khăn cho cả cá nhân và nhóm. Việc tiết kiệm và chi trả nợ vay hàng ngày có thể giúp cho họ trả dần. Người dân có thể thấy rằng món nợ của họ đang giảm dần mỗi ngày. Nó cũng hợp lý khuyến khích người dân trả mỗi khi họ có tiền trong túi. Nếu họ luôn tìm nguồn thu nhập sinh sống hàng ngày, cũng có nghĩa là mỗi ngày !

Tiết kiệm ngày là một phương thức nhằm với tới người nghèo nhất
Tiết kiệm ngày làm hấp dẫn nhóm nghèo nhất và giúp họ tiếp cận vào tiến trình. Đối với những ai không còn hi vọng nào khác để tiếp cận các hệ thống tài chính, tiết kiệm ngày giúp những người nghèo nhất có thể tiếp cận được. Nó cũng giúp các cộng đồng tiếp tục các hoạt động trao dổi tài chính. Nó cũng tự thay đổi tiến trình của mình bởi những người khá giả sẽ không còn cảm thấy hấp dẫn với những món tiền nhỏ và công việc mỗi ngày như vậy. Đối với những người có khả năng tiết kiệm 500 đến 1000 Baht một tháng, 5 Baht một ngày là quá ít ỏi và đáng chán.

Tiết kiệm ngày là một hệ thống đơn giản và phù hợp với cuộc sống
Nếu tiến trình tiết kiệm là hàng tuần hay hàng tháng, các gia đình nghèo nhất sẽ gặp khó khăn bởi nguồn thu nhập của họ phi chính quy và họ phải thay đổi tìm kiếm mỗi ngày. Trong tiếng Thái tiết kiệm ngày cũng có nghĩa là sự thương thuyết. Ở hầu hết các nhóm, người dân chọn lựa hình thức tiết kiệm tuần hay tháng tùy thuộc hình thức thu nhập. Điều này không bắt buộc. Trong một số nhóm, các thành viên tiết kiêm ngày tự hình thành một tô riêng cùng nằm chung dưới nhóm.

Tiết kiệm ngày là một hình thức thách đố chống lại những bất công kiểu cũ. Các chương trình TK có thể bị cản trở bởi các lãnh đạo kiểu cũ. Khi UCDO bắt đầu chương trình TK ngày đã có một hi vọng là các lãnh đạo kiểu cũ sẽ bị thách thức và một sự lãnh đạo dân chủ hơn được thay thế. Tuy nhiên các lãnh đạo này đã níu chặt lấy quyền lực. TK ngày đã giúp các nhóm nhỏ hình thành theo cách thức không chống lại một cách trực tiếp. Một khi các thách thức chín muồi, các nhóm mới này liên kết lại và trở nên mạnh mẽ đủ để hình thành một hệ thống quyền lực mới tại các cộng đồng.

Phát triển cộng đồng bắt đầu bằng một tiến trình tự điều nghiên của cộng đồng và tiếp tục thông qua việc nghiên cứu các khu đất công cộng bỏ hoang dùng cho nhà ở. Nhóm Mahila đầu tiên ở Byculla đã phải thu thập nhiều kinh nghiệm và bài học trong việc thương thuyết với các tổ chức có liên quan về đất đai trong nhiều năm qua để có được một khu đất công với vị trí thích hợp do nhóm chọn lựa. Các nhóm đang tiến hành thương thuyết về đất cũng đồng thời làm việc trên các mô hình nhà ở nhằm thiết kế , thử nghiệm và trình bày những gì họ mong muốn. Mỗi một dự án phát triển đất đòi hỏi việc lắp đặt cơ sở hạ tầng và các nhóm cộng đồng phải làm việc trên các lựa chọn bao gồm các kiểu nhà vệ sinh công cộng, hệ thống nước thải. Tiến trình và những thanh tựu ở Thái lan tại các nhóm UCDO đã tạo ra một tác động mạnh đến các nhóm cộng đồng nghèo khác giúp nhân rộng. Một vài những điển hình cụ thể có thể dẫn đến việc thay dổi chính sách nếu chúng được đánh giá như những giải pháp mới, hiệu quả hơn, rẻ tiền hơn và khả thi hơn những giải pháp đang thực hiện.

UCDO đã và đang cho vay tín dụng nhà ở từ 1993. Suốt giai đoạn này, việc xem xét làm thế nào tín dụng phát triển nhà ở có thể hỗ trợ người nghèo luôn được tiến hành. Trong trường hợp UCDO, sau 3 -4 năm đầu thực hiện cho vay tín dụng nhà ở cho thấy rằng việc bao cấp lãi suất riêng lẻ là không hiệu quả, không tạo điều kiện để các hộ nghèo nhất được tiếp cận vào tiến trình, bởi vì thu nhập của họ quá thấp so với giá thị trường. Một cuộc lượng giá dựa trên cộng đồng được thực hiện năm 1997 đã cung cấp một cái nhìn thú vị làm thế nào hỗ trợ nhà ở cho người nghèo đô thị do chính các nhóm cộng đồng tự quản sẽ hữu hiệu hơn.

Các nhóm cộng đồng đang phải đối mắt với việc giải tỏa không chỉ chấp nhận sự giải tỏa và nhận tiền vay cho các dự án di dời , mua đất và xây dựng nhà mới. Họ cần có thời gian để chuẩn bị tốt hơn các chương trình TK và lập kế hoạch cho tiến trình phát triển mở rộng nhà ở. Đồng thời họ cần tìm kiếm sự thương thuyết với chủ đất nhằm trì hoãn việc giải tỏa và đạt được tiền đền bù thỏa đáng của chủ đất có thể hoàn trả toàn bộ hay một phần khu đất mới. Nếu các cộng đồng cùng nhau hợp lực đề thương thuyết với chủ đất và làm chậm trễ việc giải tỏa hoặc/và tìm kiếm các cơ quan có liên quan sẵn sàng hỗ trợ họ tìm kiếm giải pháp họ sẽ trở nên mạnh hơn. Các hoạt động này củng cố tinh thần nhóm và tạo thuận lợi để phát triển một tiến trình nhà ở tự quyết định thông qua việc quản lý tín dụng nhà ở.

Về mặt tài chính, các dự án nhà ở cần khả thi để tất cả các thành viên, ngay cả những người nghèo nhất, được tham gia vào dự án nhà ở mới, càng nhiều càng tốt. Như trình bày ở trên, trong tiến trình nhà ở mới, mỗi thành viên cộng đồng cần tham gia vào mọi bước thực hiện bao gốm từ việc tìm kiếm đất đai, giá cả, lập kế hoạch cộng đồng, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà và hợp tác với các tổ chức có liên quan.

Dự án nhà ở nên nhỏ và đơn giản để cộng đồng có thể quản lý thành công. Với ý tưởng này, kích thước gợi ý là không nên quá 4 acres (đơn vị đo của Anh, 1 acres = khoảng 4050 mét vuông).

Các kinh nghiệm này đã đem lại sự thay đổi trong tiến trình hỗ trợ nhà ở của UCDO. Qua đó các mạng lưới cộng đồng và nhà ở ngày càng được quan tâm cùng sự hợp tác với các nhóm địa phương khác. Trong tiến trình mới này, các mạng lưới cộng đồng tổ chức các cuộc điều nghiên cộng đồng và phối hợp với các nhóm trong cùng một quận nhằm tìm kiếm các kế hoạch phát triển nhà ở cho tất cả các cộng đồng. Mạng lưới cũng giúp thảo luận với các tổ chức khác chẳng hạn chính quyền địa phương. Bằng cách này các cộng đồng tạo ra khả năng thương thuyết mạnh hơn. Các mạng lưới đề xuất các khoản mục trọn gói, qua đó các cộng đồng có thể có được hạng mục cải thiện cơ sở hạ tầng, cộng đồng khác thì được chia xẻ đất đai, cộng đồng khác nữa thì có việc di dời trong quận. Khu đất công trong quận được nhận diện nhằm xác định đất công dành cho nhà ở cho người nghèo. Đối với UCDO, tín dụng nhà ở có thể hỗ trợ cho cmạng lưới cho tất cả các dự án phát triển nhà ở trong cùng một quận. Khoản tín dụng này có thể do mạng lưới cộng đồng cùng các tổ chức địa phương cùng nhau quản lý.

Kết luận

Các hoạt động TK-TD đóng một vai trò quan trọng nhằm tập hợp các cộng đồng ngồi lại cùng nhau, giúp họ giải quyết các nhu cầu một cách thiết thực đồng thời cũng tạo ra sự thay đổi quyền lực chính trị trong chính tại cộng đồng. KInh nghiệm từ nhiều quốc gia và ở Thái Lan đa cho thấy các nhóm TK – TD có xu hướng tập trung nguồn lực của họ để tạo ra một quỹ lớn hơn, linh hoạt hơn giúp nhận được hỗ trợ từ các cộng đồng đang thực hiện hoạt động tương tự. Các mạng lưới giúp mở rộng tiến trình cộng đồng để cùng kết hợp hỗ trợ và kiểm tra. Mạng lưới cũng giúp các nhóm tập hợp để cùng nhau giải quyết một vấn đề, chẳng hạn quyền sử dụng đất.

NHằm khuyến khích các sáng kiến này, cần thiết lập một tổ chức như Quỹ Người Nghèo Đô thị nhằm hỗ trợ trực tiếp các hoạt động cải thiện có quy mô lớn trong tiến trình nhà ở và các phát triển có liên quan của người nghèo đô thị. Các kinh nghiệm của UCDO ở Thai Lan trong việc tổ chức Quỹ Người nghèo Đô thị thông qua các hoạt động TK-TD ở cấp quốc gia đả cho thấy sự tồn tại của nguồn quỹ quay vòng như vậy rõ ràng hỗ trơ sự phát triển của người nghèo đô thị. Quỹ quay vòng cũng giúp nối kết hệ thống tài chính và kinh tế chính quy với tới các nhóm TK-TD của người nghèo. Qua đó tiến trình cộng đồng quy mô rộng có thể dược phát triển đáp ứng các nhu cầu đa dạng và tiến trình phát triển của các nhóm cộng đồng. Quỹ tạo điều kiện tiếp cận cho các nhóm cộng đồng đang có nhu cầu nhất và đáp ứng ngay lập tức. Đồng thời cũng tạo ra một tiến trình nối kết với các tiến trình phát triển cộng đồng khác bằng nhiều hình thức khác nhau. Điều quan trọng cần có sự tham gia của các cộng đồng ở nhiều mức độ quản lý khác nhau. Với quan điểm là người sử dụng có thể can thiệp vào điều kiện và thời hạn của món vay, giúp đảm bảo tính thích hợp, tạo mối quan hệ gần gũi giữa người quản lý quỹ và các thành viên cộng đồng, làm tăng khả năng phân tích của các lãnh đạo.

Sau hơn 2 năm, các nhóm TK-TD của Thái Lan đã có cơ hội nối kết với 2 chương trình hỗ trợ kinh tế của chính phủ dành cho người nghèo đô thị. Cả 2 nguồn quỹ đều nhằm giúp các cộng đồng vượt qua cơn khủng hoảng tài chính. Cả hai cùng bắt đầu bằng sử dụng chiến lược cổ truyền là đòi hỏi các đề xuất nhu cầu. Các mang lưới TK-TD cộng đồng đã tạo cho họ cơ hội thay đôi thực hiện. Thay vì đề nghị các cộng đồng cạnh tranh lẫn nhau, thông qua hợp tác với UCDO, Quỹ đã chấp thuận việc xác định các cộng dồng nghèo do chính họ thực hiện và đề nghị họ cùng nhau lập kế hoạch làm thế nào để nguồn quỹ được sử dụng hiệu quả nhất. Chỉ không đến 1 năm 61 mạng lưới đã trình đề xuất của họ.

Tiến trình xét duyệt được tiến hành theo cách việc xét duyệt cũng chính là tiến trình lập kế hoạch do mạng lưới đề xuất và tiến hành. Tiến trình lập kế hoạch được thiết kế nhằm cung cấp sự kiểm soát và cân đối đảm bảo các dự án hợp lý và hiệu quả. Hơn nữa, yêu cầu tham vấn với các mạng lưới khác cũng đảm bảo việc học hỏi kinh nghiệm được thực hiện và những nối kết mang lưới được củng cố.
(Nguồn ACHR.Vn)

Mạng lưới cộng đồng của Thái Lan


Mạng lưới cộng đồng của Thái LanPhần 1. Các vấn đề chính cho việc Giải Quyết Nghèo Đói Đô Thị
Câu hỏi làm thế nào để giải quyết một cách hiệu quả vấn đề nghèo đói ở khu vực nông thôn và thành thị đã là mối quan tâm hàng đầu của các chương trình kế hoạch quốc gia và quốc tế từ hàng thập kỷ đến nay. Chẳng hạn, các tổ chức chính phủ, cơ quan chuyên môn và các nhóm cộng đồng đã tìm kiếm những phương cách "làm thế nào" để giải quyết vấn đề nghèo đói trên quy mô vừa đủ, củng cố và tiếp tục tính hiệu quả.
Rõ ràng cho đến nay, các hệ thống hiện hữu về phát triển kinh tế và tốc độ đô thị hóa tăng đã dẫn đến sự chênh lệch ngày càng tăng về thu nhập và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều các vấn đề tại các đô thị trừ khi vấn đề nghèo đói đô thị được giải quyết một cách thích hợp. Điều này đưa ra một số câu hỏi quan trọng như sau:
• Làm thế nào để tìm thấy được một tiến trình phát triển liên tục kéo dài, bền vững và hiệu quả; không chỉ đơn thuần giải quyết các triệu chứng mà là các nguyên nhận gốc rễ của vấn đề nghèo đói?
• Làm thế nào tìm kiếm và cải tiến các tiến trình như vậy trở thành các công cụ giúp phát triển sức mạnh, khả năng và sự hiểu biết trong các cộng đồng của người nghèo. Qua đó, họ trở thành các nhân tố chính của tiến trình thay đổi?

• Những cơ chế nào có thể hỗ trợ các tiến trình phát triển mới này và giúp liên kết rộng rãi nhiều nhóm khác nhau, hoạt động với nhiều mức độ năng lực khác nhau và với chính quyền ở nhiều cấp khác nhau?
Đây là một số điểm then chốt cần được xem xét và phát triển sâu hơn. Nó cũng đòi hỏi việc suy xét lại và thử nghiệm các phương thức thực hiện mới, thay vì chỉ làm theo các phương thức cổ điển trong các hệ thống tổ chức hiện hữu. Tạo ra những thay đổi nhỏ trong các hệ thống cũ, cách suy nghĩ cũ và cách làm cũ nó không thể giúp chúng ta theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng về kinh tế và xã hội do sự toàn cầu hóa tạo ra, hay quy mô bùng nổ và và sự phức tạp của các vấn đề nghèo đói tại các thành phố.
Từ 1992, Văn Phòng Phát Triển Cộng Đồng Đô Thị Thái lan (UCDO)- Urban Community Development Office (UCDO) đã và đang thử nghiệm các tiến trình phát triển mới nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói đô thị tại Thái Lan. Sự thách đố là việc sử dụng Quỹ Phát Triển Người Nghèo Đô Thị - Urban Poor Development Fund (UPDF) để tạo ra sự phát triển cộng đồng đô thị thực sự của chính người dân nghèo - với quy mô quốc gia. Cho đến hôm nay, thông qua hoạt động rất cơ bản là tiết kiệm và tín dụng cộng đồng, hơn 600 nhóm tiết kiệm tín dụng của các cộng đồng nghèo trong 40 tỉnh của cả nước đã tự tổ chức thành mạng lưới cộng đồng tại mỗi thành phố. Các mạng lưới cộng đồng này đã trở thành một cơ chế phát triển hợp tác hoàn toàn của chính các cộng đồng, giúp họ phát triển các giải pháp cho những vấn đề mà họ phải đương đầu, thông qua một số các chương trình hoạt động như: giành quyền đất đai và các dự án nhà ở, doanh nghiệp cộng đồng, chiến lược phúc lợi cộng đồng, quỹ phát triển CĐ, các hoạt động cải thiện môi trường v.v....
Đồng thời, các mạng lưới cộng đồng đã củng cố khả năng thương lượng của các cộng đồng nghèo trong các thành phố, các sáng kiến nảy sinh và các mối quan hệ hợp tác hiệu quả với các nhân tố khác trong các dự án phát triển quy mô cấp thành phố có ảnh hưởng đến người nghèo đô thị. Các mạng lưới cộng đồng cũng đã góp thêm sức mạnh cùng các các nhóm dân sự khác trong thành phố tác động lên các xu hướng phát triển thành phố. Hình thức mạng lưới dân sự này có thể được sử dụng như một cơ chế phát triển quan trọng nhằm xóa bỏ những cách biệt về sự hiểu biết đang tồn tại giữa người nghèo đô thị và hệ thống chính quy, giúp cân bằng mối liên hệ chính trị quan trọng này.
Việc xây dựng các mạng lưới dân sự như vậy đã trở thành một xu hướng và đã chứng minh đây là một phương thức hiệu quả giải quyết vấn đề nghèo đói đô thị - do chính người nghèo thực hiện. Bên cạnh các thử nghiệm cùng UCDO ở Thái Lan, có rất nhiều các kinh nghiệm hay cho thấy tiềm năng to lớn của phương thức mới này ở một số quốc gia Châu Á. Đã đến lúc cần sử dụng kiến thức tổng hợp của thử nghiệm này nhằm thiết lập một xu hướng phát triển mới mạnh mẽ của khu vực hiện đang góp phần giải quyết vần đề nghèo đói đô thị trong các xã hội Châu Á hiệu quả hơn rất nhiều so với trước đây.
Phần 2. Các kinh nghiệm của UCDO Thailand
2.1 Nghèo đói đô thị ở Thái Lan
Thái Lan có hơn 2000 cộng đồng ổ chuột, với khoảng 2 triệu cư dân sinh sống, được xem là người nghèo đô thị. Thật ra con số người nghèo đô thị đông hơn nhiều, bởi vì có rất đông dân cư sống rải rác phía bên ngoài các cộng đồng ổ chuột chưa được tính vào con số trên. Tuy nhiên các cư dân khu ổ chuột và cư dân lấn chiếm số lượng đông nhất. 70% người nghèo đô thị Thái Lan kiếm sống trong khu vực phi chính thức - đa số họ có thu nhập hàng ngày và là người buôn bán nhỏ. Các khó khăn chủ yếu của họ là sự thiếu an toàn về đề đất đai và nhà ở, nghèo đói,quyền cư trú tại thành phố, tiếp cận hạ tầng cơ sở, sức khỏe và giáo dục.
2.2 Văn Phòng Phát Triển Cộng Đồng Đô Thị
UCDO được thành lập vào năm 1992 như một cố gắng của chính phủ Thái nhằm áp dụng một phương thức mới và phát triển một tiến trình mới để giải quyết vấn đề nghèo đói đô thị.
Chính phủ đã tài trợ một quỹ vốn quay vòng 1,250 triệu Baht (khoảng US$ 32 triệu) thông qua Bộ Nhà Ở - National Housing Authority* - nhằm thiết lập một chương trình đặc biệt và một tổ chức mới, văn phòng độc lập - Văn phòng Phát Triển Cộng Đồng - mục tiêu giải quyết nghèo đói đô thị với quy mô quốc gia.
Chương trình có mục tiêu nhằm cải thiện điều kiện sống và tăng năng lực tổ chức cho các cộng đồng nghèo đô thị thông qua việc khuyến khích các nhóm tiết kiệm và tín dụng cộng đồng, đồng thời cung cấp các khoản vay tổng hợp với lãi suất thích hợp như những gói vay có quy mô lớn (wholesale loans) cho các tổ chức cộng đồng.
Quỹ Phát Triển Người Nghèo Đô Thị mới này tạo điều kiện để tất cả các nhóm nghèo đô thị một khi đã cùng nhau tập hợp lại đều có thể tiếp cận nguồn quỹ và đăng ký vay vốn cho các dự án phát triển của họ.
Đối với người nghèo đô thị, việc cùng nhau tổ chức nhóm tiết kiệm tín dụng là khá dễ dàng, là cách đơn giản và trực tiếp để giải quyết các nhu cầu khẩn cấp hàng ngày của mình. Các hoạt động tiết kiệm trở thành một công cụ nối kết người nghèo trong cộng đồng tìm kiếm phương cách cùng nhau làm việc, từ việc giải quyết các nhu cầu cơ bản đơn giản đến việc quản lý các hoạt động phát triển phức tạp tạo liên kết với hệ thống chính thức. Nhóm tiết kiệm và tín dụng trở thành điểm khởi đầu cho một tiến trình phát triển của chính cộng đồng, liên kết lại cùng nhau trong một cộng đồng và nối kết với các nguồn bên ngoài. Ở đây, Quỹ Phát Triển Người Nghèo Đô thị là một nguồn do chính người dân cộng đồng tự phát triển lên.
Tuy nhiên, ý tưởng ở đây không chỉ đơn giản nhằm cung cấp các món vay lãi suất thấp cho người nghèo. Các hoạt động tiết kiệm và tín dụng cộng đồng được xem như một phương tiện tạo ra sự phát triển thực sự của chính cộng đồng, nó có khả năng dần từng bước giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của sự đói nghèo. Cái quan trọng hơn các khoản vay rẻ chính là thúc đẩy phát triển khả năng quản lý cộng đồng và tăng cường sức mạnh của các tổ chức cộng đồng để có thể làm chủ các tiến trình phát triển cộng đồng khác nhau. Vì vậy, điều quan trọng là tiến trình phát triển bao gồm việc lập kế hoạch cộng đồng và xây dựng mối quan hệ hợp tác với các nhân tố phát triển khác tại địa phương - đặc biệt là chính quyền các thành phố - và liên kết hợp tác cùng các hoạt động phát triển đa dạng khác của địa phương. Tiến trình cùng nhau tiếp tục học hỏi và phát triển giữa các cộng đồng nghèo cần được xem là một cơ chế phát triển chính nhằm giải quyết các vấn đề nghèo đói đô thị, do chính cộng đồng nghèo thực hiện thông qua việc sử dụng Quỹ Phát Triển Người Nghèo Đô thị như nguồn vốn cơ sở của chính họ.
2.3 Liên Kết Mạng Lưới Cộng Đồng là cơ chế hợp tác phát triển
Một trong các hoạt động đáng chú ý nhất của UCDO đó là tiến trình liên kết các nhóm tiết kiệm và tín dụng người nghèo đô thị trong cùng một thành phố và quận, hay trên cùng các vấn đề phát triển tương tự và các nhóm có chung mối quan tâm để hình thành các mạng lưới cộng đồng khác nhau. Mạng Lưới cũng được tổ chức tại các cấp khác nhau - từ quốc gia, vùng, thành phố, khu vực và cấp quận. Thật ra không có sẵn một hình thức mạng lưới cộng đồng được ấn định, các mạng lưới được phát triển tùy thuộc lợi ích của các nhóm tham gia, phụ thuộc vào hoàn cảnh thay đổi của chính họ.
Chúng tôi đã nhận ra rằng liên kết mạng lưới cộng đồng là một nền tảng đặc biệt vững chắc cho sự phát triển trên quy mô rộng - một nền tảng bao gồm khả năng tiềm tàng trong việc học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, thúc đẩy hay nâng cao sự phấn khích, khích lệ lẫn nhau. Các mạng lưới đã giúp các nhóm nghèo đô thị của Thái Lan tăng thêm sự tự tin. Mạng lưới cộng đồng đã nảy sinh ở nhiều cấp độ , nhiều hình thức khác nhau, và trở thành cơ chề phát triển chính do người dân tự thực hiện của UCDO. Công việc của họ nhằm thúc đẩy một tiến trình phát triển giải quyết vấn đề nghèo đói đô thị trên quy mô toàn quốc và liên kết các chương trình hiện hữu khác do chính cộng đồng thực hiện.


Phần 3. Các Hình Thức và Chức Năng của Mạng Lưới Cộng Đồng Giải Quyết Nghèo Đói Đô Thị
Việc khởi động một mạng lưới cộng đồng có thể được tiến hành dễ dàng với sự hiểu biết ít nhiều về nghèo đói đô thị và xu hướng phát triển tự lực của chính người dân. Việc tập hợp các nhóm cộng đồng để cùng nhau thảo luận về các vấn đề và hoạt động chung hẩu như luôn dẫn đến các hình thức hợp tác và mạng lưới, và luôn đưa đến các cuộc họp mặt và tập hợp tiếp theo sau, cuối cùng luôn có thể đem lại một số các hoạt động chung.
Một số mạng lưới khởi động một cách rất lỏng lẻo lúc ban đầu. Khi có các cuộc họp mặt thường xuyên, người dân của các cộng đồng khác nhau và đến từ khắp nơi của mọi miền đất nước tìm hiểu và học hỏi lẫn nhau về thực trạng và các vấn đề của chính họ, cũng như các đặc điểm khác biệt của từng nơi trước khi đi vào hình thành các tổ chức cùng nhau. Các hình thức tổ chức này thường chỉ nhắm đến các mục tiêu hoạt động cụ thể trong tiến trình lập quyết định hay nhằm thực hiện các hoạt động chung.
Vì vậy, việc thành lập mạng lưới có thể được thúc đẩy bằng cách thử thiết lập các điều kiện cho cùng nhau lập quyết định và thực hiện các dự án chung.
Từ năm 1996, UCDO đã hợp tác với DANCED nhằm phát triển Các hoạt động Cải Thiện Môi Trường Cộng Đồng (UCEA), sử dụng Quỹ Môi Trường cho phép các mạng lưới cộng đồng lập các quyết định và tự thực hiện các dự án cải thiện môi trường cộng đồng trên cơ sở tổ chức có sẵn của họ cùng với cố vấn hợp tác của các tác nhân địa phương khác. Điều kiện của chương trình đã giúp tập hợp các nhóm cộng đồng lại cùng nhau làm việc như một mạng lưới chung cả cộng đồng một cách mạnh mẽ hơn để đưa ra các quyết định, khuyến khích, thực hiện và quản lý tất cả các hoạt động phát triển có liên quan đến bất kỳ một dự án cọng đồng trong mạng lưới. Vì vậy mỗi cộng đồng tham gia mạng lưới đều được tiếp cận trực tiếp với nguồn tài sản chung, đó là: kiến thức, kinh nghiệm của nhiều nhóm cộng đồng khác nhau và có cơ hội đạt được các lợi ích trong các hoạt động phát triển của chính mình. Với phương thức này, mọi hoạt động và thành công của tiến trình ở bất kỳ cộng đồng nào đều trở thành nguồn kiến thức học hỏi cho cả mạng lưới. Đồng thời khi có vần đề phát sinh, mạg lưới có thể trở thành một cơ chế hợp tác cùng nhau giải quyết vấn đề cho các thành viên.
3.2 Các hình thức khác nhau của Mạng Lưới Cộng đồng nghèo
Có rất nhiều hình thức Mạng Lưới Cộng Đồng khác nhau. Ý tưởng cơ bản của mạng lưới là làm thế nào tạo ra sự liên kết mà qua đó các cộng đồng nghèo đô thị có thể quản lý một cách tối đa. Ý tưởng về mạng lưới cộng đồng không phải là điều mới mẻ, thế nhưng các hình thức mạng lưới cộng đồng được quản lý rõ ràng và minh bạch do chính cộng đồng lại không có nhiều. Đa số các mạng lưới cộng đồng cổ điển do người bên ngoài điều khiển như một phần của chiến lược dành cho người nghèo được tổ chức và quản lý bởi các tổ chức chính phủ và cơ quan bên ngoài.
Do lịch sử của việc giám sát quản lý bên ngoài như vậy, điều quan trọng là các mạng lưới cộng đồng cần phải được tổ chức từ dưới lên - từ tổ chức nhỏ nhất và hoạt động như nền tảng để nối kết với các tổ chức rộng lớn hơn. Ở Thái Lan, mạng lưới cộng đồng bắt đầu bằng sự nối kết giữa các cộng đồng trong cùng một quận hay cùng một thành phố, xem như sự thiết lập mạng lưới cơ bản, sau đó nối kết cùng nhau ở cấp tỉnh, cấp vùng và cấp quốc gia. Bên cạnh đó cũng tồn tại các mạng lưới cộng đồng liên kết cùng nhau với cùng chung các vấn đề phát triển, chẳng hạn mạng lưới các cộng đồng nằm dọc trên khu đất của Bộ Đường Sắt, các cộng đồng nằm dọc kênh rạch, hay các cộng đồng nối kết lại với nhau bởi các doanh nghiệp cổ phần hay các hoạt động phúc lợi. Mỗi loại hình mạng lưới cộng đồng cung cấp một khung thể chế chung cho các cộng đồng có cùng chung bối cảnh hay các mối quan tâm để cùng nhau thực hiện đạt các mục tiêu phát triển liên tục của mình. Đồng thời, họ cùng nhau, như một nhóm, thương lượng nhằm đạt cơ cấu liên quan hay sự thay đổi về chính sách.
3.3 Các chức năng Phát triển Tổng Hợp của Mạng Lưới Cộng Đồng trong việc Giải Quyết Nghèo Đói Đô Thị
Một khi các cộng đồng tự tổ chức vào các mạng lưới cộng đồng, một cơ chế phát triển cộng đồng rộng lớn hơn bắt đầu xuất hiện nhằm đương đầu với các vấn đề phát triển một cách triệt để hơn và với quy mô rộng lớn hơn, dần từng bước đi đến các nguyên nhân gốc rễ khác nhau của vấn đề nghèo đói. Một số ví dụ về tiến trình ở Thái Lan được tóm lược ở đây:
3.3.1 Mạng lưới cộng đồng giải quyết các vấn đề đất đai và nhà ở
Hầu hết các nhóm nghèo đô thị đều phải đương đầu với các vấn đề về đất và nhà ở. Sự không an toàn trong sở hữu đất và các vấn đề giải tỏa là hàng rào cản làm cho các nhóm nghèo đô thị không thể tiếp cận các quyền cơ bản và ổn định thực sự cuộc sống của họ tại thành phố. Đằng sau của tình trạng này là hàng loạt các vấn đề thuộc cơ cấu rộng lớn về phân phối đất và cách biệt trong thu nhập, như là một phần của hệ thống kinh tế hiện hành. Các vấn đề cơ cấu này quá rộng lớn, quá khó khăn phức tạp và đòi hỏi nhiều kinh phí cho bất kỳ một cá nhân nghèo nào hay thậm chí một cộng đồng đơn lẻ nào có thể tự giải quyết. Đây chính là điểm cơ cấu cho thấy vai trò quan trọng của mạng lưới cộng đồng trong việc giải quyết các vấn đề quá lớn đối với các cá nhân.
Tại Thái Lan, có một số hình thức mạng lưới cộng đồng đang giải quyết theo một số phương cách khác nhau cho vấn đề phát triển đất và nhà ở. Một vài trong số các mạng lưới này đang tiến hành giải quyết các vấn đề theo các cách như sau:
• Giải quyết vấn đề giải tỏa: Các mạng lưới cộng đồng có thể cùng nhau chia xẻ các kinh nghiệm làm thế nào thương lượng trong quá trình giải tỏa, cũng như giúp cùng nhau thương lượng như một mạng lưới cho các lựa chọn thích hợp hơn đối với người nghèo thay cho việc giải tỏa. Các tiến trình thương lượng hiệu quả có thể giúp tạo ra một hệ thống cân bằng và hợp lý hơn, với sự chia xẽ trách nhiệm một cách công bằng hơn cho cả hai phía. Việc giải tỏa không có sự chia xẻ đầy đủ trách nhiệm cho các bên tham gia, những người hưởng lợi trong việc giải tỏa sẽ gây ra sự tệ hại và phức tạp hơn cho các vấn đề nghèo đói đô thị.
• Nhằm nối kết các cộng đồng có cùng chủ đất hay các cộng đồng bị ảnh hưởng chung bởi một chính sách phát triển cùng nhau làm việc cho các chính sách tốt hơn, rõ ràng hơn và các lựa chọn thích hợp: Trong một số trường hợp, các cộng đồng đang tồn tại trên khu đất có cùng một chủ sở hữu (chẳng hạn mạng lưới cộng đồng trên đất Bộ Đường Sắt, các cộng đồng trên kênh rạch, các cộng đồng dưới gầm cầu xa lộ v.v...) liên kết cùng nhau để tìm kiếm các giải pháp cho chính họ và tạo ra một tư cách thương lượng hiệu quả hơn với các chủ sở hữu. Một số mạng lưới không chỉ làm giảm tốc độ của việc giải tỏa không cần thiết, mà còn cùng nhau làm việc với các chủ sở hữu để đưa ra các chính sách tốt hơn rõ ràng hơn trong việc tái phát triển các khu ổ chuột.
• Hợp tác cùng nhau trong cùng một thành phố cho các hoạt động giành quyền an toàn về đất đai và nhà ở cho tất cả các cộng đồng nghèo đô thị. Trước đây vấn đề an toàn đất đai và nhà ở luôn do một cá nhân hay một cộng đồng riêng lẻ đối phó - một cách đơn độc - Vì vậy rất khó có thể giải quyết được những vấn đề to lớn như vậy, chúng đòi hỏi sự cố gắng và điều hành đáng kể chỉ để đạt được một giải pháp mong đợi cho từng trường hợp. Với sự hiện diện của mạng lưới cộng đồng, nếu các cộng đồng có thể cùng nhau làm việc để nắm bắt các vấn đề về đat đai và nhà ở trên quy mô toàn thành phố và các chính sách quy hoạch có liên quan đến đất đai; đồng thời có thể xây lên cho chính họ một vị trí mới trong các cán cân lực lượng đô thị thông qua sự hợp tác điều hành và khả năng thương lượng của mình. Một điều thú vị là rất nhiều cộng đồng trong mạng lưới đã có thể cùng giải quyết các vấn đề đất đai và nhà ở - liên tục và thường xuyên. Một số các ví dụ ở Thái Lan cho thấy một khi các mạng lưới cộng đồng đô thị tiến hành các điều nghiên khảo sát cộng đồng ở quy mô thành phố nhằm hiểu rõ thực trạng khác nhau, các nhân tố có liên quan tham gia, qua đó lập một kế hoạch những gì cần tiến hành cho tất cả các cộng đồng trong mạng lưới của họ và họ bắt đầu các thương lượng với các cơ quan khác như một nhóm. Xu hướng phát triển mới này rất quan trọng trong sự phát triển nhà và đất trong tuơng lai đối với người nghèo đô thị.
• Thiết lập mạng lưới của các Hợp Tác Xã Nhà Ở Cộng Đồng: Một loại hình mạng lưới cộng đồng khác nhằm nối kết các cộng đồng tham gia trong các hoạt động phát triển nhà ở mới hay tái định cư đến một nơi mới. Loại hình mạng lưới này có thể hỗ trợ các cộng đồng thành viên việc thương thuyết đóng góp sửa đổi bổ sung một số các quy định, điều lệ có liên quan hay việc miễn giảm thuế, bởi vì việc phát triển nhà ở cho người nghèo đô thị cần có sự hỗ trợ của chính phủ và được xem như một tiến trình phát triển nhà ở xã hội phi lợi nhuận. Hơn nữa Mạng Lưới Cộng Đồng Hợp Tác Xã cung cấp một khung thể chế cho việc học hỏi trao đổi kinh nghiệm và kiến thức về việc thực hiện, các khó khăn của các hoạt động phát triển nhà ở chính thức.
3.3.2 Mạng Lưới Cộng đồng nhằm phát triển các hoạt động Tiết Kiệm và Tín Dụng cũng như Quỹ Hợp Tác Phát Triển
Các hoạt động Tiết Kiệm và Tín Dụng Cộng Đồng là một cơ chế nền tảng phát triển quan trọng và là một nguồn tài chính cơ sở của cộng đồng cho việc phát triển nghèo đói tự quản của các cộng đồng nghèo. Nếu các hoạt động tiết kiệm và tín dụng được phát triển và nối kết thích hợp với các tiến trình bên ngoài, chúng trở thành sự liên kết với các nguồn khác và góp phần củng cố khả năng của cộng đồng trong việc tạo thu nhập và công ăn việc làm. Nó cũng giúp các nhóm nghèo đô thị cải thiện vai trò vị trí về tài chính của họ và hỗ trợ họ trong thương lượng với các tổ chức thương trường khác nhằm tăng khả năng lợi tức. Tại Thái Lan, có một số phát triển nổi bật trong mạng lưới cộng đồng trong các lĩnh vực này như sau:
• Mạng lưới cộng đồng hỗ trợ chất lượng của các nhóm tiết kiệm và tín dụng cho các cộng đồng thành viên: Các cộng đồng thường xuyên tổ chức các cuộc họp mặt để báo cáo về tình hình hoạt động tiết kiệm và tín dụng trong cộng đồng. Họ chia xẻ các kinh nghiệm và học hỏi làm thế nào hoạt động một cách hiệu quả, làm thế nào giải quyết các vấn đề không trả nợ, hoạt động kế toán v.v...Một số mạng lưới cũng đã cố gắng tập hợp nhiều nhóm vào mạng lưới bằng cách cùng nhau thiết lập các nhóm tiết kiệm mới trong khu vực của họ. Có rất nhiều các hoạt động trao đổi tham quan học hỏi lẫn nhau giữa các mạng lưới.
• Phát triển Quỹ Mạng Lưới: Phát triển Quỹ Mạng Lưới đã trở thành một sự liên kết và cơ chế hỗ trợ tài chính giữa các hoạt động tiết kiệm và tín dụng cộng đồng cho các thành viên của mạng lưới. Gần đây, UCDO đã bắt đầu cung cấp các hoản vay cho các mạng lưới cộng đồng, cho phép các mạng lưới này phát triển các Quỹ Mạng Lưới của chính họ nhằm hỗ trợ tín dụng cho các cộng đồng thành viên cũng như thỗ trợ kinh phí cho các hoạt động mạng lưới cộng đồng.
3.3.3 Mạng Lưới Cộng Đồng phát triển các hoạt động doanh nghiệp cộng đồng
Một trong các lí do chính vì sao người dân nghèo trước tiên là vì họ bị cô lập trong hoạt động, không được tổ chức lại để có thêm khả năng cạnh tranh với các thành phần kinh tế tư nhân có nhiều ảnh hưởng và lớn mạnh hơn, và vì vậy họ phải tiếp tục chịu sự thua thiệt. Tại các cộng đồng, người nghèo thường có rất nhiều các hoạt động kiếm sống khác nhau, rất khó có thể tổ chức họ cùng làm chung một công việc. Tại các khu vực có các mạng lưới cộng đồng hoạt động hiệu quả, kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy một số cách thực hiện thú vị của các mạng lưới cộng đồng hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp cộng đồng.
• Các Mạng Lưới Cộng đồng nhận hợp đồng phụ trực tiếp từ thành phố Bangkok: Năm 1999 một số các mạng lưới cộng đồng ở Bangkok đã có khả năng thắng một số các hợp đồng từ các cuộc đấu thầu trị giá xấp xỉ 30 triệu Baht (US$ 0.8 million). Các dự án hợp đồng phụ bao gồm việc sản xuất 350,000 đồng phục học sinh, thu gom rác trong các cộng đồng và các hẻm nhỏ, sửa chữa đường, dọn sạch kênh rạch và các hố ga. Mạng lưới cộng đồng đã đề xuất (hoặc đề cử) cho các dự án này và tổ chức các hoạt động này cùng các thành viên cộng đồng có kĩ năng. Mạng Lưới Tiểu Thủ Công Nghệ cũng đã thắng một hợp đồng lớn sản xuất hàng kỉ vật bằng đồng cho Đại Hội Thể Thao Châu Á, tại BKK. Hình thức mới này của các doanh nghiệp cộng đồng và các hoạt động hợp đồng thầu phụ chỉ có thể đạt được cùng với các hoạt động tiết kiệm tín dụng cộng đồng và các hỗ trợ tín dung của UCDO. Một tiềm năng to lớn cho sự phát triển các hoạt động doanh nghiệp cộng đồng khác nhau cho các mạng lưới cộng đồng trong tương lai.
• Mạng Lưới Cộng Đồng lập kế hoạch phát triển kinh tế và tài chính cho các thành viên nghèo của mình: Tương tự như đối với các doanh nghiệp cộng đồng, mạng lưới cũng đã tổ chức lại thiết lập kế hoạch về đất đai, xây dựng nhà, cải thiện thu nhập và kế hoạch tài chính gia đình. Thông qua mạng lưới này, các mối liên kết với các cơ hội việc làm tại địa phương và các thành phần thương mại liên quan được liệt kê một cách có hệ thống. Mạng lưới cộng đồng có thể đóng vai trò như một xúc tác quan trọng làm tăng uy tín và vị trí của nhiếu công việc, giúp họ họ thu nhập tốt hơn và cải thiện các điều kiện làm việc cho các thành viên của mình, sử dụng sự hỗ trợ của các nhóm kinh tế mạnh hơn, của thành phố và các nhà nghiên cứu trong khu vực.
• Mạng lưới cùng ngành nghề: Trong trường hợp của Thái lan, mạng lưới cũng đã được thành lập bởi những người dân có cùng ngành nghề, chẳng hạn tài xế taxi và các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Loại hình mạng lưới đặc biệt theo ngành nghề này có thể nối kết cùng nhau để thúc đẩy thay đổi một số chính sách nhất định cho ngành nghề của họ.
3.3.4 Phát triển một hệ thống Phúc Lợi Cộng đồng bằng Mạng Lưới Cộng Đồng
Việc phát triển một mạng lưới an toàn cộng đồng nhằm hỗ trợ các nhóm rất nghèo và thiệt thòi nhất trong các cộng đồng nghèo, đồng thời phát triển một hệ thống phúc lợi cơ bản cho các nhóm nghèo đô thị là rất cần thiết. Trong năm 1999, UCDO đã phối hợp với Quỹ Đầu Tư Xã Hội (Social Investment Fund) để phát triển một hệ thống phúc lợi cộng đồng sử dụng mạng lưới cộng đồng như tổ chức trung tâm cho các cộng đồng thành viên. Tiến trình đã bắt đầu bằng các cuộc họp mặt của mạng lưới, ở đó mỗi cộng đồng đã nhận diện các vấn đề phúc lợi đặc biệt của chính mình và trình bày các nhu cầu của các nhóm thiệt thòi trong cộng đồng. Sau đó mỗi cộng đồng tự tiến hành khảo sát nhằm thiết lập kế hoạch cụ thể cho các hoạt động phúc lợi cần tiến hành - Làm thế nào? Thực hiện ra sao? Thực hiện cùng ai? Điều phối ra sao? Kinh phí hoạt động? Làm thế nào cùng tổ chức một số các quỹ phúc lợi? Mối quan hệ giữa mạng lưới và cộng đồng và các nhóm đối tượng? Kết quả của tiến trình này , hầu hết các mạng lưới cộng đồng nghèo đô thị của Thái lan đã tổ chức quỹ phúc lợi của chính họ nhằm hỗ trợ các hoạt động phúc lợi sau:
• Học bổng, học phí và tín dụng phúc lợi quay vòng để trả học phí cho những ai có đủ khả năng hoàn trả với thời hạn vay linh hoạt
• Quỹ và một số tài trợ cho người già có nhu cầu
• Quỹ y tế và viện phí cho những trươngé hợp đau yếu
• Tài trợ cho việc tái hội nhập phục hồi sau nghiện
• Tín dụng nhỏ quay vòng nhằm tăng thu nhập cho các hộ đặc biệt nghèo
3.3.5 Phát triển các hoạt động Môi trường Cộng đồng do Mạng Lưới Cộng đồng và Ủy Ban Hợp tác Địa phương thực hiện
Từ 1996, UCDO đã phối hợp với DANCED để tổ chức Quỹ Môi Trường Cộng Đồng Đô Thị (Urban Community Environment Fund) hỗ trợ các dự án môi trường cộng đồng do các tổ chức cộng đồng và mạng lưới cộng đồng thực hiện. Chương trình được thiết lập với phương thức cho phép các nhóm cộng đồng là chủ thực hiện cùng với sự hỗ trợ chặt chẽ và quản lý bởi mạng lưới cộng đồng. Kế hoạch hiện tại nhằm nối kết mạng lưới thông qua một tiến trình nhận diện các vấn đề, lập quyết định, đóng góp kinh phí, chuẩn bị ngân quỹ và thực hiện dự án của Ủy Ban Dự án Địa phương, thực hiện, bảo trì và quản lý v.v... Kết quả là có khoảng 200 dự án đã được thực hiện trong vòng 2 năm qua. Các dự án cải thiện môi trường này, bao gồm các trung tâm cộng đồng, cống thoát, hệ thống cung cấp nước sạch, cầu và tráng đường có chi phí rẻ hơn, được thực hiện một cách nhanh chóng hơn đa số các dự án của chính phủ. Một điều quan trọng hơn cả của các dự án này là nó không chỉ cải thiện về môi trường cho các khu định cư nghèo, mà nó thúc đảy và củng cố mạng lưới, hỗ trợ xây dựng mối quan hệ hợp tác với chính quyền địa phương.
Kết luận
Điều quan trọng của bất kỳ một xu hướng phát triển nào nhắm đến việc nhân rộng khả năng phát triển của người nghèo trong việc giải quyết nghèo đói đô thị một cách hiệu quả và thực tế, là cho phép nhân rộng các cơ chế tự thực hiện do người nghèo đô thị tự thiết lập và phát triển.

Mạng lưới dân sự sẽ trở thành một cơ chế phát triển ngày càng rõ nét hơn nhằm nối kết và cung cấp xu hướng chung, cùng nhau học hỏi và dần khắc phục các khó khăn của một số vấn đề hệ thống cản trở sự phát triển của người nghèo.

Để có một xu hướng phát triển này phụ thuộc một số yếu tố như sau:
• Niềm tin vào khả năng thực hiện và suy nghĩ của người nghèo đô thị, tin vào sức mạnh của chính họ và họ có thể tự tổ chức và cùng nhau phát triển các hoạt động của chính họ.
• Luôn sẵn sàng hành động với phương thức tích cực sẽ đem lại các cơ hội mới
• Các hoạt dộng tiết kiệm tín dụng cộng đồng là cơ sở vững chắc cho một tiến trình phát triển, được xem là một công cụ để người nghèo sử dụng nhằm cùng nhau giải quyết các vấn đề của họ; không còn thực hiện một cách đơn lẻ và cũng không phải là một mục tiêu cuối cùng cho họ.
• Tin tưởng vào xu hướng nối kết , giữa người nghèo đô thị, giữa các cộng đồng, giữa các mạng lưới và các tổ chức phát triển khác
• Phát triển sự tham gia cộng đồng một cách thực sự hơn và các tổ chức mạng lưới, các tổ chức này cần phát triển các kỹ năng và khả năng mới để giải quyết hiệu quả các vấn đề cho các thành viên nghèo của mình; đồng
thời học hỏi các phương thức làm thế nào hớp tác với các tổ chức có liên quan khác và với chính quyền thành phố.
Somsook Boonyabancha, UCDO, ACHR
(Nguồn : ACHR.VN)

Nguồn nhân lực tại cộng đồng nông thôn và năng lực thể chế


Nguồn nhân lực tại cộng đồng
nông thôn và năng lực thể chế
Những đúc kết kinh nghiệm gần đây trong việc thúc đẩy phát triển theo định hướng cộng đồng tại Việt Nam đã cho thấy tầm quan trọng của việc tăng cường năng lực cấp cơ sở. Tuy nhiên, vẫn có xu hướng phần nào cho rằng các cán bộ xã và thôn bản tại những xã nghèo không thể đảm nhận hoàn toàn về lập kế hoạch, thực hiện và quản lý các công trình cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ và một số hoạt động phát triển khác bởi vì các cán bộ này không có đủ năng lực. Tuy nhiên, quan điểm này đã không được ủng hộ. Và rõ ràng quan điểm cố hữu này - đặc biệt về năng lực của các cán bộ địa phương vùng dân tộc thiểu số - đã trở thành rào cản cho các sự phát triển. Kinh nghiệm từ một số dự án và chương trình dài hạn cho thấy rằng trên thực tế, các chương trình đào tạo tại chỗ sẽ cung cấp đầy đủ hướng dẫn cho học viên và nhờ đó năng lực của họ sẽ tăng lên. Kinh nghiệm từ những chương trình này cho thấy tăng
cường năng lực không chỉ đơn thuần thông qua đào tạo mà liên quan nhiều hơn đến quá trình phát triển tổ chức, chính sách, cơ chế thực hiện, và phát triển nguồn nhân lực cùng với chiến lược hỗ trợ phát triển địa phương một
cách hiệu quả.
Nhiều kinh nghiệm đã thu được khi thực hiện các chương trình NGO và các dự án tài trợ không hoàn lại theo phương pháp đào tạo tăng cường năng lực cho cán bộ xã và thôn bản, cán bộ khuyến nông, các tổ chức của nông dân và các nhóm phụ nữ. Tuy nhiên, phần
lớn những hoạt động này đã thực hiện bên ngoài các hệ thống đào tạo thường xuyên của Chính phủ. Chỉ một vài dự án là có kết quả được nhân rộng một cách có hệ thống trong hệ thống đào tạo của Chính phủ và lồng ghép được các phương pháp đã được xây dựng
trong các dự án vào các chương trình của các cơ quan đào tạo cấp tỉnh. Có xu hướng cho thấy các dự án chỉ tiến hành các dịch vụ đào tạo cấp tốc đáp ứng những yêu cầu ngắn hạn mà không giúp giải quyết những khó khăn cơ bản và lâu dài về tăng cường năng lực quản lý và kỹ thuật tại các xã và thôn bản vùng sâu vùng xa. Đây là một vấn đề quan trọng cần phải xem xét cẩn thận khi thiết kế các chương trình trong tương lai. Tăng cường các năng lực chuyên môn tại cấp xã là một nhân tố chủ yếu của Chương trình Cải cách Hành chính của Chính phủ. Để vươn đến được với những xã vùng sâu vùng xa này, cần thiết phải thông qua các cơ quan đào tạo và cung cấp dịch vụ của tỉnh và điều này cũng cần thiết cho việc kết hợp hiệu quả các đầu tư. Các tổ chức đào tạo và các tư vấn trong nước khó có thể cung cấp những loại tập huấn tiếp theo và thường xuyên theo dõi để đào tạo tiếp cho các cán bộ xã và thôn bản nhằm xây dựng các kỹ năng chính (trong quản lý, giám sát kỹ thuật, quản lý tài chính và dân chủ cấp cơ sở). Trong các chương trình trong tương lai, cần xem xét trực tiếp và hỗ trợ tập trung hơn cho những tổ chức đào tạo này. Một khía cạnh đặc biệt quan trọng của việc nâng cao năng lực là tăng cường thể chế để thực hiện chủ yếu ở cấp xãm và thôn bản. Ở những vùng hẻo lánh và vùng dân tộc ít người, các phương tiện thông tin thông thường như dán thông cáo tại các văn phòng UBND xã hoặc thông báo trên loa phóng thanh và sử
dụng tivi có thể ít hiệu quả và khó tổ chức. Kinh nghiệm cho thấy việc đào tạo các phương pháp và kỹ năng lãnh đạo và kỹ năng thực hiện chương trình đơn lẻ không hiệu quả lắm. Để cải tiến, cần phải kết hợp với việc đào tạo các kỹ năng kỹ thuật và ứng dụng chúng vào trong những tình huống công việc, nhiệm vụ và trách nhiệm; và khi cần
cũng phải đào tạo bổ túc văn hoá.
Một vấn đề cơ bản liên quan tới việc cung cấp dịch vụ trong bối cảnh phát triển theo định hướng cộng đồng là làm thế nào để các dịch vụ khác nhau tương hỗ với nhau ở cấp cộng đồng để mang lại lợi ích tối đa cho cả nam giới và nữ giới ở địa phương. Mặc dù các cơ quan cung cấp dịch vụ có thể nhằm vào cùng nhóm người, nhưng họ thường không
hợp tác một cách hiệu quả để đảm bảo rằng việc hỗ trợ mang lại những lợi ích
tối đa cho những người dự kiến được hưởng lợi. Xây dựng tính hiệp lực tốt hơn trong việc cung cấp các dịch vụ có nghĩa là: (i) xác định những lĩnh vực liên kết quan trọng nhất mà có tác động và mang lại lợi ích nhất về sinh kế ở một vùng cụ thể hoặc trong một bối cảnh kinh tế xã hội cụ thể, (ii) xem xét nội dung các dịch vụ này - bao gồm các trình tự và cơ chế chuyển giao - được làm như thế nào để bổ sung cho nhau
có hiệu quả hơn, (iii) xây dựng mối quan hệ hợp tác tốt hơn giữa các cơ quan, bao gồm cả những nhà cung cấp dịch vụ công và tư nhân và các tổ chức trung gian khác, (iv) tại cấp cộng đồng, tăng cường năng lực các cá nhân và tổ chức địa phương để làm cho các dịch vụ này trở nên hiệu quả.Các nghiên cứu đánh giá đói nghèo được thực hiện bởi Nhóm Công Tác nghiên cứu về nghèo đã chỉ ra hàng loạt các nhu cầu khác nhau giữa nam giới và nữ giới ở các vùng nông thôn nghèo về các cơ hội đào tạo dạy nghề và đào tạo
các kỹ năng. Điều này cho thấy tiềm năng lớn về công tác tăng cường năng lực thể chế để cung cấp những khoá đào tạo như thế đặc biệt là ở các vùng cao. Trong những năm gần đây một số các nhà tài trợ (ví dụ như ADB và SDC) đã chủ động hỗ trợ đào tạo dạy nghề và doanh nghiệp. Tuy nhiên việc tiếp cận với hệ thống đào tạo dạy nghề chính
thống phụ thuộc vào yêu cầu phải có bằng tốt nghiệp trung học và những yêu cầu về ngoại ngữ và đây là một rào cản đối với đa số người nghèo ở vùng cao đặc biệt là phụ nữ nghèo. Cần xem xét những vấn đề này trong các chương trình mới để đưa ra được các khởi xướng và cách tiếp cận thích hợp cho việc giáo dục dựa vào cộng đồng và đào
tạo các kỹ năng cho những người sống ở vùng cao để không phải phụ thuộc vào những yêu cầu bằng cấp tối thiểu và hướng vào các cơ hội tăng thu nhập qui mô nhỏ và nhu cầu đặc biệt của giới nữ.
Hiện nay nhiều xã vùng cao hẻo lánh thiếu năng lực kỹ thuật trong cộng đồng để xây dựng và duy trì một số dạng cơ sở hạ tầng nhất định. Vấn đề ở đây là làm thế nào để những nhóm người địa phương được “đào tạo tại chỗ qua công việc” (ví dụ làm cống nước và đường) để phát triển được những năng lực này.Đây là vấn đề cơ bản vừa nhằm đảm
bảo tính bền vững trong việc duy trì và vận hành những hệ thống này, vừa để tối đa hoá các lợi ích của chương trình cho cộng đồng địa phương. Có thể làm điều này bằng cách, ví dụ gắn các công trình của xã gần hơn với các chương trình đào tạo dạy nghề dựa vào cộng đồng và hệ thống “đội ngũ lao động làm việc trẻ”. Trong tương lai, những
nhóm này có thể ký hợp đồng để nhận duy trì đường sá và nếu thành công thì có thể phát triển thành doanh nghiệp qui mô nhỏ hoặc các hình thức hợp tác khác để họ có thể nhận được hợp đồng đảm nhận bảo trì đường sá thường xuyên.

Cuối cùng cũng cần chú ý đưa vào các chương trình sắp để làm sao có thể nâng cao khả năng cũng như sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp hộ gia đình, các hợp tác xã và các cá nhân và thợ thủ công địa phương thông qua các kiểu hợp đồng
phụ với cộng đồng. Tuy nhiên, việc này cần kết hợp và đảm bảo rằng các thủ tục hợp đồng và mua sắm phải được đơn giản hoá và có những cơ chế khuyến khích thích hợp để khuyến khích khu vực tư nhân địa phương.Kinh nghiệm trong Chương trình 135 ở Tuyên Quang cho thấy rằng có thể làm được việc này. Trong quá trình lựa chọn công trình ở tỉnh này, dân làng được tham vấn là công trình nào họ thấy rằng họ có thể quản lý được
tại địa phương và công trình nào cần hợp đồng với công ty. Hợp đồng phụ với cộng đồng có thể dưới một số hình thức như: hợp đồng với nhóm người dân địa phương, hợp tác xã
hoặc những thợ thủ công trong một xã hoặc từ các xã lân cận. Các kiểu tổ
chức này đã được thực hiện thành công, ví dụ như trong việc xây dựng và trang bị dụng cụ bàn ghế đồ đạc cho các trường học và các nhà trẻ làng
và trong việc xây dựng các công trình thuỷ lợi qui mô nhỏ
(Nguồn: /www.agro.gov.vn)